

“Trong suốt thời kỳ đổi mới, tăng trưởng kinh tế của Việt Nam chưa từng vượt mốc 10%, chỉ có hai năm 1995 và 1996 đạt mức trên 9%, nhưng sau đó sụt giảm. Tuy nhiên, trong những năm tới, một yếu tố đáng chú ý sẽ giúp Việt Nam đạt được mục tiêu tăng trưởng hai chữ số, đó là thể chế, giải phóng sức dân.
Nếu chỉ dựa vào đầu tư công và đầu tư nước ngoài thì tăng trưởng kinh tế của Việt Nam chỉ có thể ở mức từ 8-9%. Vì vậy, để đạt được con số trên 10%, cần giải phóng kinh tế tư nhân.
Xuất khẩu cũng là một động lực tăng trưởng mạnh mẽ khác của nền kinh tế. Trong thời kỳ bao cấp, khi bắt đầu thu được những tỷ đô đầu tiên từ xuất khẩu hàng triệu tấn gạo, cả nước đã rất vui mừng. Bên cạnh khai thác dầu mỏ và năng lượng hóa thạch thì không mặt hàng xuất khẩu nào của Việt Nam ở thời điểm đó đem lại doanh thu hàng tỷ USD.
Với sự tăng trưởng nhanh chóng của nền kinh tế, nhiều ngành sản xuất khác của Việt Nam đã phát triển mạnh mẽ như dệt may, nông nghiệp. Đơn cử như xuất khẩu trái sầu riêng, trong năm 2024 đã thu về gần 3 tỷ USD, hay tập đoàn FPT thu 1 tỷ USD mỗi năm từ xuất khẩu phần mềm. Đây chính là đại diện cho niềm tin vào nền kinh tế Việt Nam. Bên cạnh đó, còn rất nhiều cơ hội khác để nền kinh tế có thể phát triển.
Trước đây niềm tin này không có nhiều. Năm 2015, khi nội bộ tập đoàn FPT đưa ra mục tiêu giá trị xuất khẩu mỗi năm đạt 1 tỷ USD, nhiều lãnh đạo của tập đoàn không tin rằng đây là một con số khả thi. Tuy nhiên, đến hết năm 2023 thì doanh nghiệp đã đạt được con số này. Ở thời điểm hiện tại, 1 tỷ USD không còn là một con số lớn và nhiều thành viên trong công ty đã đặt ra mục tiêu tăng doanh thu từ xuất khẩu phần mềm lên 5 tỷ USD/năm vào năm 2030. Đây chỉ là kết quả của một doanh nghiệp và tôi tin rằng sẽ có hàng nghìn công ty Việt Nam khác đạt doanh thu hàng trăm triệu cho đến hàng tỷ USD.

Trong tương lai, có thể chênh lệch thương mại của Việt Nam với Mỹ sẽ không chỉ đến từ những ngành như dệt may, da giày mà cả đến những lĩnh vực công nghệ cao như xuất khẩu phần mềm. Năm 2030 đang đến gần mà riêng FPT đã quyết tâm thực hiện mục tiêu xuất khẩu đạt 5 tỷ USD. Những thế hệ trẻ hơn có thể đưa con số xuất khẩu của doanh nghiệp tư nhân tăng thêm hàng chục tỷ USD.
Để đạt được bước đột phá tăng trưởng như trên, doanh nghiệp phải thay đổi. Như tại FPT, chúng tôi nhận ra rằng nếu chỉ dùng sức người thì cần đến 100.000 nhân viên để đạt được mục tiêu xuất khẩu đạt 5 tỷ USD. Tuy nhiên, công nghệ ngày nay đã thay đổi và nhiều doanh nghiệp đã nhận ra điều này.
Công nghệ trí tuệ nhân tạo (AI) đã có sự phát triển mạnh mẽ. Theo đó, 50% dòng lệnh của Google hiện được viết bởi AI. Trong Kỷ nguyên mới này, cần những con người có khả năng suy nghĩ sáng tạo, tư duy hệ thống để tận dụng được những bước tiến công nghệ mới. Đây là thời kỳ để thế hệ trẻ Việt Nam, những người được tiếp xúc với công nghệ, AI từ nhỏ, tạo ra sự tăng trưởng đột phá.
Công nghệ trí tuệ nhân tạo đem lại cơ hội, lợi thế lớn cho những nước như Việt Nam. Những quốc gia như Mỹ, Nhật Bản hay Hàn Quốc tuy phát triển nhưng là các quốc gia đang già hóa. Trong khi đó, thế hệ trẻ của Việt Nam sẽ càng nổi bật. Xu thế chuyển đổi số, tận dụng AI, dữ liệu càng lan rộng thì Việt Nam sẽ càng được hưởng lợi”.

“Năm 2024 là một năm đầy thách thức đối với các doanh nghiệp tư nhân, tuy nhiên, bước sang năm 2025, nhờ những quyết sách tăng trưởng kinh tế từ lãnh đạo Đảng và Chính phủ, cùng với cải cách thể chế và các chính sách hỗ trợ, doanh nghiệp tư nhân đang đứng trước cơ hội lớn để tăng trưởng.
Đối với những doanh nghiệp lớn, bản thân họ đã có những đóng góp rất lớn vào tăng trưởng kinh tế trong nhiều năm qua. Bởi họ có đủ lợi thế để đi tắt, đón đầu những lĩnh vực có tính định hướng cao như công nghệ bán dẫn, công nghệ phần mềm…
Về phía các doanh nghiệp nhỏ và vừa, năm 2025 là năm mang tính bản lề để nhóm doanh nghiệp này thay đổi, đặc biệt là sự thay đổi trong tư duy tiếp cận thị trường khi giờ đây sẽ không đơn thuần chỉ là thị trường trong nước mà còn cả thị trường nước ngoài bởi sự phát triển của Internet và AI đang xóa nhòa đi khoảng cách địa lý.
Để làm được điều đó, các doanh nghiệp cần làm tốt việc quản trị và xây dựng một mô hình kinh doanh tốt. Chỉ khi có được cấu trúc quản trị vững từ vị trí của Hội đồng quản trị, Ban Giám đốc điều hành đến cách thức điều hành, kiểm soát, mới có thể chèo lái con tàu doanh nghiệp chạy theo đúng hướng.
Trong bối cảnh nút thắt về thể chế được gỡ bỏ, đi kèm với đó những quyết tâm của lãnh đạo Đảng và Chính phủ về phát triển kinh tế tư nhân thì đây là cơ hội lớn, đồng thời cũng là bước ngoặt để doanh nghiệp công khai, minh bạch, công bố thông tin và tăng cường chất lượng quản trị.
Bản chất cuối cùng của quản trị để đáp ứng nhu cầu của thị trường vốn, các cổ đông đầu tư thu hút vốn đầu tư nước ngoài. Đây là một năm chúng ta kỳ vọng về nâng hạng thị trường nên kể cả doanh nghiệp quy mô vừa, kể cả niêm yết trên sàn hay không niêm yết, kể cả Penny hay MidCap, đều không thoát khỏi xu thế về quản trị.

Khi nhìn vào báo cáo kết quả quản trị của năm 2024 đánh giá về năm 2023 thì chúng ta thấy còn một khoảng cách so với khu vực ASEAN. Tuy nhiên, năm bản lề 2025 dự kiến sẽ có những cải thiện rất lớn.
Về mặt tích cực có thể thấy điểm số về quản trị trong năm 2023 so với giai đoạn đầu đánh giá đã tăng lên gấp đôi. Tuy rằng so với trung bình của ASEAN thì chưa đạt nhưng đã thể hiện một xu hướng vô cùng mạnh mẽ của các doanh nghiệp Việt Nam. Trong đó, bên cạnh việc tăng thêm quyền lợi của cổ đông thì các doanh nghiệp đang ngày một cải thiện trong công bố thông tin bằng tiếng Anh cho thị trường vốn quốc tế.
Một trong số những tiêu chí đang được nhiều doanh nghiệp Việt Nam chú ý đó là phát triển bền vững. Tiêu chí này đang được đưa vào rất nhiều lĩnh vực, đặc biệt là xếp hạng tín nhiệm. Có nghĩa là doanh nghiệp ra thị trường nguồn vốn, kể cả vốn chủ lẫn vốn vay thì phát triển bền vững là tiêu chí bắt buộc doanh nghiệp phải đáp ứng.
Ngoài ra, cấu trúc về hội đồng quản trị của các doanh nghiệp Việt Nam cũng đã thay đổi so với trước đây. Gần đây, các doanh nghiệp hướng đến vấn đề quản trị khá nhiều. Tuy nhiên, một trong vấn đề lớn của thị trường Việt Nam hiện nay là chúng ta đang thiếu nguồn lực, đặc biệt là nguồn nhân sự quản trị. Do đó, cần có những giải pháp phát triển đội ngũ nhân sự quản trị tốt, độc lập, có tính chuyên gia thay vì như trước đây hội đồng quản trị, hội đồng thành viên, ban giám đốc chỉ là một vị trí nắm giữ vốn của doanh nghiệp mà không có nhiều hoạt động quản trị.
Trong bối cảnh AI ngày càng phát triển, doanh nghiệp hoàn toàn có thể ứng dụng công nghệ này để tăng năng suất lao động và tốc độ ra quyết định. Đây là một xu thế không thể đảo nghịch mà mọi doanh nghiệp thuộc mọi lĩnh vực đều phải thay đổi, thích nghi nếu không muốn bị bỏ lại phía sau. Khi các chủ doanh nghiệp nhỏ và vừa nhận thức rõ được cơ hội, dám dấn thân và đầu tư nguồn lực cần thiết sẽ giúp tăng đầu tư tư nhân, góp phần tăng trưởng GDP”.

“Việc Chính phủ ban hành Quyết định số 232/QĐ-TTg ngày 24/1/2025 phê duyệt Đề án Thành lập và phát triển thị trường carbon tại Việt Nam thể hiện sự lắng nghe của Việt Nam đối với ý kiến của các nhà đầu tư về tiềm năng phát triển của thị trường tín chỉ carbon.
Sàn giao dịch tín chỉ carbon của Việt Nam tuy hoạt động, nhưng sẽ chỉ có quy mô thí điểm từ năm 2025 và có thể kéo dài đến năm 2027 hoặc 2028 trước khi kết nối với sàn giao dịch toàn cầu vào năm 2029-2030. Dù chỉ hoạt động thí điểm, song việc thành lập sàn giao dịch này đã tạo sự chú ý cho các doanh nghiệp trong nước và quốc tế về tiềm năng thị trường tín chỉ carbon của Việt Nam.
Hơn nữa, việc các doanh nghiệp tại Việt Nam trong thời gian tới phải tuân thủ hạn ngạch phát thải theo quy định đang được Chính phủ soạn thảo là cơ hội để thị trường giao dịch tín chỉ carbon phát triển mạnh. Bên cạnh hoàn thành mục tiêu Net Zero vào năm 2050, việc hình thành và phát triển thị trường tín chỉ carbon là một phần không thể thiếu để Việt Nam có thể bắt kịp với xu thế chuyển đổi xanh toàn cầu.
Việc xây dựng thị trường giao dịch tín chỉ carbon trong nước cũng sẽ dẫn đến sự hình thành của hệ sinh thái các doanh nghiệp hoạt động trong ngành này, bổ sung cho đà phát triển của nền kinh tế. Trong quá khứ, nhiều doanh nghiệp tại Việt Nam muốn mua bán tín chỉ carbon phải tìm đến những công ty dịch vụ nước ngoài, vì nước ta chưa có tiêu chuẩn nội địa hoặc các đơn vị đặt ra tiêu chuẩn này để đảm bảo tính hợp pháp của tín chỉ.
Nếu không có tiêu chuẩn nội địa thì các doanh nghiệp Việt Nam sẽ khó có thể tham gia vào thị trường mua bán tín chỉ carbon quốc tế. Trong năm 2024, World Bank đã mua một số tín chỉ rừng của Việt Nam (một loại tín chỉ quyền phát thải nhưng có giá trị thấp hơn tín chỉ carbon) với giá chỉ 3-4 USD mỗi tín chỉ. Khi các tiêu chuẩn trong nước được ban hành và được quốc tế công nhận, giá bán tín chỉ carbon của Việt Nam sẽ rất cao dù mục tiêu này sẽ cần khoảng thời gian và các khoản đầu tư lớn để thực hiện.
Việt Nam có cơ hội thu được lợi nhuận kinh tế lớn từ hoạt động giao dịch tín chỉ carbon, khi mục tiêu đạt được Net Zero là mục tiêu của nhiều quốc gia trên thế giới. Mặc dù vậy, Việt Nam phải đạt được đủ tín chỉ carbon để hoàn thành mục tiêu giảm phát thải theo Đóng góp do quốc gia tự quyết định (NDC) của mình trước khi nghĩ đến tham gia vào thị trường trao đổi toàn cầu.
Sau khi đảm bảo được mục tiêu NDC, Việt Nam có thể cung cấp tín chỉ carbon cho những quốc gia phát triển với lượng phát thải lớn trên thế giới như Mỹ, Trung Quốc, Ấn Độ, Nga. Hiện tại, một số quốc gia chưa phát triển đã tận dụng lợi thế có diện tích rừng lớn để thu lợi nhuận từ việc bán tín chỉ carbon. Việt Nam không thể đứng ngoài cuộc chơi này”.

“Để đảm bảo tăng trưởng GDP đạt mức 8% vào năm 2025, đồng thời duy trì đà phát triển trong dài hạn của nền kinh tế Việt Nam, yếu tố vốn đóng vai trò then chốt.
Trong đó, khu vực kinh tế ngoài nhà nước (hay còn gọi là kinh tế tư nhân) có vai trò vô cùng quan trọng. Hiện nay, khu vực tư nhân đóng góp gần 45% GDP cả nước và chiếm hơn 40% tổng vốn đầu tư thực hiện toàn xã hội.
Tuy nhiên, tốc độ tăng trưởng vốn đầu tư của khu vực tư nhân đang có dấu hiệu chững lại trong thời gian gần đây. Cụ thể, trung bình từ năm 2015 đến nay, vốn đầu tư tư nhân tại Việt Nam duy trì mức tăng trưởng hàng năm khoảng 17,08%. Đến năm 2024, con số này đã giảm mạnh xuống còn 6,85%, trong khi năm 2023 thậm chí chỉ đạt 2,71%. Sự sụt giảm này phản ánh rõ những khó khăn mà khu vực kinh tế tư nhân đang đối mặt, đồng thời cho thấy động lực đầu tư của khu vực này đang suy yếu.
Nếu nhìn vào bức tranh tổng thể về tăng trưởng vốn đầu tư toàn xã hội, có thể thấy vốn đầu tư tư nhân giống như một bánh răng đang bị lệch nhịp, chưa thể vận hành trơn tru để tạo ra lực đẩy mạnh mẽ cho nền kinh tế. Trong bối cảnh đó, việc thúc đẩy đầu tư tư nhân không chỉ là một nhiệm vụ quan trọng mà còn mang tính quyết định đối với mục tiêu tăng trưởng kinh tế chung của Việt Nam trong thời gian tới.
Năm 2025, để đạt mục tiêu tăng trưởng GDP 8% mà Chính phủ đã đặt ra, bên cạnh việc tiếp tục đẩy mạnh đầu tư công và thu hút vốn đầu tư trực tiếp nước ngoài (FDI), Việt Nam cần đặc biệt chú trọng đến việc thúc đẩy đầu tư tư nhân. Theo kế hoạch, vốn đầu tư từ khu vực này cần đạt ít nhất 2,30 triệu tỷ đồng, tương đương mức tăng 7,7% so với năm 2024. Mục tiêu này đòi hỏi Việt Nam cần có một loạt chính sách hỗ trợ thiết thực nhằm tạo điều kiện thuận lợi để khu vực tư nhân phát huy tối đa tiềm năng của mình.
Trong đó, một trong những giải pháp then chốt là ban hành một nghị quyết chuyên biệt dành riêng cho khu vực kinh tế tư nhân nhằm thúc đẩy sự phát triển bền vững của khu vực này. Đồng thời, Chính phủ cần tiếp tục cải thiện mạnh mẽ môi trường đầu tư, đơn giản hóa thủ tục hành chính, nâng cao tính minh bạch và giảm thiểu rào cản pháp lý để doanh nghiệp tư nhân có thể mở rộng quy mô và hoạt động hiệu quả hơn.
Thực tế cho thấy, chỉ cần Việt Nam xây dựng được một thể chế vững chắc, tạo dựng một môi trường kinh doanh thuận lợi, thì chắc chắn khu vực tư nhân sẽ phát triển mạnh mẽ. Minh chứng rõ nét là thế hệ doanh nhân trẻ hiện nay không chỉ làm việc trong nước mà còn tham gia vào nền kinh tế toàn cầu, góp mặt tại nhiều thị trường phát triển, đồng thời đầu tư vào nhiều lĩnh vực tại Việt Nam.
Ngày càng có nhiều người trẻ coi Việt Nam là điểm đến lý tưởng để gia tăng tài sản và hiện thực hóa hoài bão kinh doanh. Do đó, nếu Việt Nam có một thể chế tốt, khuyến khích đổi mới sáng tạo, thúc đẩy sự phát triển của khu vực kinh tế tư nhân và định hướng tăng trưởng một cách bền vững, thì mục tiêu đạt tốc độ tăng trưởng GDP từ 8% đến 10% hoàn toàn khả thi”.

“Năm 2025 và tiếp theo sẽ có rất nhiều dự án luật thuế được trình Quốc hội thảo luận và thông qua. Trong bối cảnh nền kinh tế đang đối mặt với nhiều thách thức như lạm phát, biến động chuỗi cung ứng và sự suy giảm nhu cầu toàn cầu, chính sách thuế cần được điều chỉnh một cách thận trọng để vừa hỗ trợ doanh nghiệp, người tiêu dùng, vừa đảm bảo nguồn thu ngân sách nhà nước. Theo đó, cần tập trung vào ba trọng tâm.
Thứ nhất, chính sách thuế cần đóng vai trò kích thích đầu tư. Việc giảm thuế thu nhập doanh nghiệp hoặc có các ưu đãi thuế phù hợp sẽ giúp doanh nghiệp có thêm nguồn lực để mở rộng sản xuất, đổi mới công nghệ và tạo thêm việc làm. Điều này đặc biệt quan trọng trong giai đoạn phục hồi kinh tế hậu Covid-19 và những biến động địa chính trị toàn cầu hiện nay. Đầu tư vào các lĩnh vực then chốt như cơ sở hạ tầng, công nghệ cao và giáo dục không chỉ thúc đẩy tăng trưởng ngắn hạn mà còn tạo nền tảng cho sự phát triển bền vững trong tương lai.
Thứ hai, chính sách thuế cũng phải hỗ trợ sức mua của người tiêu dùng. Những biện pháp như giảm thuế giá trị gia tăng (VAT) hoặc điều chỉnh thuế thu nhập cá nhân có thể giúp giảm chi phí hàng hóa, tăng thu nhập khả dụng của người dân, từ đó kích thích tiêu dùng nội địa. Tiêu dùng tăng sẽ thúc đẩy sản xuất, tạo ra chu kỳ kinh tế tích cực và góp phần vào tăng trưởng GDP. Tuy nhiên, việc điều chỉnh thuế cần có sự cân đối để tránh tác động tiêu cực đến nguồn thu ngân sách và đảm bảo sự bền vững tài khóa trong dài hạn.
Thứ ba, điều quan trọng nhất là phải có cách tiếp cận toàn diện khi điều chỉnh chính sách thuế. Cần đánh giá tác động không chỉ về mặt kinh tế mà còn về mặt xã hội, đảm bảo chính sách thuế công bằng, minh bạch, đồng thời duy trì môi trường kinh doanh ổn định và có tính cạnh tranh cao. Việc lắng nghe ý kiến từ các chuyên gia, doanh nghiệp và người dân là rất cần thiết để đảm bảo rằng chính sách thuế không chỉ đáp ứng được mục tiêu ngắn hạn mà còn hướng đến sự phát triển bền vững lâu dài.

Trong bối cảnh kinh tế biến động nhanh, khó lường như hiện nay thì luật thuế nói chung chỉ nên quy định khung sau đó giao Chính phủ điều chỉnh mức thuế suất cho phù hợp với tình hình thực tế.
Ví dụ, trong giai đoạn dịch Covid-19, nhiều nước đã phải nhanh chóng điều chỉnh thuế suất để hỗ trợ doanh nghiệp và người dân. Việt Nam cũng đã áp dụng chính sách giảm thuế giá trị gia tăng từ 10% xuống 8% để kích cầu tiêu dùng. Nếu việc điều chỉnh thuế này phải chờ sửa đổi luật thì có thể mất nhiều tháng, thậm chí cả năm, trong khi doanh nghiệp cần sự hỗ trợ ngay lập tức. Tương tự, khi giá xăng dầu thế giới tăng mạnh, một số nước có thể nhanh chóng điều chỉnh thuế môi trường với xăng dầu để kiểm soát lạm phát. Nếu không có cơ chế linh hoạt, chính sách thuế sẽ trở nên chậm chạp, không theo kịp diễn biến thực tế.
Tuy nhiên, vấn đề quan trọng ở đây là mức độ trao quyền cho Chính phủ. Thuế không chỉ là nguồn thu ngân sách mà còn ảnh hưởng trực tiếp đến doanh nghiệp và người dân. Nếu trao toàn quyền điều chỉnh thuế suất cho Chính phủ mà không có giới hạn, có thể tạo ra sự thiếu ổn định trong chính sách, khiến doanh nghiệp khó dự đoán và lập kế hoạch dài hạn. Chẳng hạn, nếu Chính phủ có thể tự do tăng thuế suất thuế thu nhập doanh nghiệp từ 20% lên 30% chỉ bằng một nghị định, điều này có thể gây sốc cho cộng đồng doanh nghiệp, ảnh hưởng đến môi trường đầu tư.
Vì vậy, phương án hợp lý là luật thuế quy định một khung thuế suất với biên độ phù hợp. Chính phủ có thể điều chỉnh thuế trong phạm vi này để thích ứng với tình hình thực tế, nhưng nếu muốn vượt quá khung, phải báo cáo và được Quốc hội thông qua. Chẳng hạn, thuế suất thuế thu nhập doanh nghiệp có thể được quy định trong luật ở mức từ 15% đến 25% và Chính phủ có thể điều chỉnh trong phạm vi này. Nếu muốn nâng lên 30% hoặc giảm xuống dưới 15%, cần có sự đồng ý của Quốc hội. Điều này vừa đảm bảo sự linh hoạt, vừa duy trì tính minh bạch và ổn định của chính sách thuế”.

VnEconomy 16/03/2025 18:15
Nội dung đầy đủ của bài viết được đăng tải trên Tạp chí Kinh tế Việt Nam số 11-2025 phát hành ngày 17/03/2025. Kính mời Quý độc giả tìm đọc tại đây:
https://postenp.phaha.vn/chi-tiet-toa-soan/tap-chi-kinh-te-viet-nam
