) Gỡ nút thắt, đón cơ hội: Các giải pháp triển khai Nghị quyết 57 - VnEconomy Emagazine
Gỡ nút thắt, đón cơ hội: Các giải pháp triển khai Nghị quyết 57 - Ảnh 1
Gỡ nút thắt, đón cơ hội: Các giải pháp triển khai Nghị quyết 57 - Ảnh 2

“Từ Chính phủ tới doanh nghiệp đều đặt mục tiêu không chỉ “làm” mà phải “làm chủ” các ngành công nghệ cao như trí tuệ nhân tạo (AI) hay bán dẫn, điều này đồng nghĩa với việc bài toán nhân lực sẽ trở nên phức tạp hơn. Về phía đơn vị đào tạo như chúng tôi, trách nhiệm đặt ra là vừa phải tăng về số lượng, nhưng quan trọng hơn là đảm bảo về chất lượng – phải có trình độ cao về kiến thức, vững vàng về kỹ năng, hay nói cách khác là phải đào tạo ra lực lượng lao động lành nghề. 

Hơn 20 năm kể từ khi thành lập, dù là một trong những cái nôi cung cấp nguồn nhân lực chất lượng cao cho thị trường, nhưng trước yêu cầu ngày càng cao, Trường Đại học Công nghệ cũng đang phải “chạy” nhanh hơn bằng nhiều giải pháp đổi mới chiến lược. 

Thứ nhất, nâng cấp toàn diện chất lượng chương trình đào tạo. Tháng 9/2025, toàn bộ đề cương và khung chương trình đào tạo của Trường Đại học Công nghệ sẽ được hoàn thiện theo chuẩn kiểm định quốc tế ABET (Accreditation Board for Engineering and Technology – Hội đồng kiểm định các chương trình đào tạo kỹ thuật – công nghệ của Mỹ).

Bên cạnh đó, các chương trình đào tạo cũng được xây dựng trên cơ sở tham khảo hệ thống giáo dục tiên tiến từ các đại học hàng đầu thế giới, đặc biệt là các trường thuộc nhóm Ivy League (Mỹ), có nghĩa là chú trọng kỹ năng thực hành, khả năng nghiên cứu độc lập và tinh thần đổi mới sáng tạo.

Thứ hai, đẩy mạnh tuyển dụng đội ngũ cán bộ giảng dạy có trình độ cao. May mắn là hiện nay phần lớn giảng viên tại Trường Đại học Công nghệ đều là các giáo sư, tiến sĩ được đào tạo bài bản tại nước ngoài, nhiều người đang là chuyên gia đầu ngành trong các lĩnh vực kỹ thuật và công nghệ.

Phải nói rằng thời gian vừa qua, Trường Đại học Công nghệ rất vinh dự khi nhận được sự hỗ trợ, đồng hành từ Chính phủ, đặc biệt là trong đầu tư cơ sở vật chất, trang thiết bị và hệ thống phòng thực hành cho sinh viên. 

Hiện nay, diện tích cơ sở vật chất của Nhà trường vẫn còn tương đối hạn chế. Nhờ nguồn lực hỗ trợ từ Chính phủ, cuối năm 2024, Trường đã chính thức khởi công xây dựng cơ sở mới tại Khu công nghệ cao Hòa Lạc với quy mô 35.000 m2, dự kiến sẽ sớm đưa vào vận hành trong thời gian tới.

Tuy nhiên, con số này thực tế mới chỉ đáp ứng khoảng 1/5 so với tổng thiết kế quy hoạch của Nhà trường, tức khoảng 150.000 m2. Bên cạnh đó, để nâng cao chất lượng đào tạo, gia tăng kỹ năng thực hành và nghiên cứu công nghệ cho sinh viên, việc trang bị thêm máy tính chuyên dụng hay hệ thống máy móc trong phòng thí nghiệm là điều bắt buộc. Trong khi đây đều là những hạng mục cần nguồn vốn đầu tư rất lớn. Nếu phải dồn gánh nặng chi phí lên học phí của sinh viên thì rõ ràng là không khả thi. Bởi mức học phí hiện nay đã là áp lực không nhỏ đối với nhiều gia đình. 

Vì vậy, trong thời gian tới, Nhà trường rất mong tiếp tục nhận được sự đồng hành, đầu tư từ Chính phủ nhằm từng bước mở rộng không gian học tập – nghiên cứu, hiện đại hóa hạ tầng kỹ thuật và trang thiết bị phục vụ công tác giảng dạy và đổi mới sáng tạo”.

Gỡ nút thắt, đón cơ hội: Các giải pháp triển khai Nghị quyết 57 - Ảnh 3

“Nghị quyết 57-NQ/TW đã đặt mục tiêu đến năm 2030, Việt Nam sẽ có quy mô kinh tế số đạt tối thiểu 30% GDP và đến năm 2045 sẽ là 50% GDP. Đồng thời, Việt Nam sẽ là một trong các trung tâm công nghiệp công nghệ số của khu vực và thế giới. Tôi tin rằng dữ liệu chính là động lực và nhiên liệu để thúc đẩy nền kinh tế số, giúp Việt Nam đạt được các mục tiêu như Nghị quyết 57 đã đề ra. Các công nghệ để thu thập, lưu trữ, xử lý và phân tích dữ liệu lớn chính là trụ cột của các ứng dụng phục vụ xã hội số, tạo động lực phát triển kinh tế số. Vì vậy, để đạt được những mục tiêu kinh tế số đầy tham vọng đó, các hạ tầng công nghệ quan trọng chắc chắn sẽ xoay quanh dữ liệu.

Đầu tiên, hạ tầng số, bao gồm việc triển khai mạng 5G rộng rãi và ổn định phủ khắp các địa phương nhằm tạo môi trường kết nối Internet truyền dẫn dữ liệu băng thông rộng, chất lượng cao. Các công nghệ, kỹ thuật 6G cũng phải được đẩy mạnh thử nghiệm trong thời gian tới. Ngoài ra, việc xây dựng các trung tâm dữ liệu quốc gia và của doanh nghiệp sẽ giúp Việt Nam tự chủ được hạ tầng số, từ đó đảm bảo chủ quyền trong không gian mạng về dữ liệu.

Thứ hai, một nền tảng công nghệ số. Điều này có nghĩa là xây dựng và phát triển chính phủ số, dịch vụ công trực tuyến; phát triển các thị trường dữ liệu cho phép tạo, thu thập, chia sẻ, giao dịch, khai phá dữ liệu lớn an toàn, hiệu quả, tôn trọng quyền riêng tư; cho phép thử nghiệm có kiểm soát thị trường tài sàn số, tài sản mã hóa tại các khu vực như Trung tâm tài chính quốc tế nhằm thu hút được nguồn vốn nước ngoài, thúc đẩy đổi mới sáng tạo trong lĩnh vực công nghệ, tài chính.

Thứ ba, ứng dụng các công nghệ trí tuệ nhân tạo, điện toán đám mây, lưu trữ và xử lý dữ liệu lớn, công nghệ chuỗi khối cho các bài toán đặc thù của Việt Nam.

Trong khi đó, để Việt Nam là một trong các trung tâm công nghiệp công nghệ số của khu vực và thế giới, chúng ta cần nhìn thật rõ bức tranh cạnh tranh hiện nay. Thực tế, chúng ta không có nhiều cơ hội để đi tắt đón đầu công nghệ số nữa, bởi chúng ta phát triển công nghệ thì các nước trên thế giới cũng đang phát triển công nghệ, thậm chí họ còn đi nhanh hơn chúng ta rất nhiều vì được đầu tư mạnh mẽ.

Một trong những công nghệ hiện nay chúng ta có một chút lợi thế là blockchain với số lượng lập trình viên cho công nghệ này lớn so với các nước trong khu vực và thế giới. Nhiều sản phẩm ứng dụng dựa trên công nghệ blockchain của các nhà phát triển Việt Nam được thị trường thế giới tiếp nhận tốt, giá trị thị trường cao. Gần đây, nhanh hơn so với các quốc gia khác, Nhà nước đã đưa ra các chính sách thúc đẩy sự phát triển của thị trường tài sản số, tài sản mã hóa, thử nghiệm sandbox công nghệ tài chính, định hướng hình thành trung tâm tài chính quốc tế.

Lợi thế mạnh nhất của Việt Nam là nhân lực và chi phí. Bên cạnh đó, thị trường Việt Nam cũng được coi là tiềm năng với dân số hơn 100 triệu dân. Chúng ta đang có một cơ cấu dân số trẻ, số lượng lập trình viên lớn và họ có khả năng học hỏi rất nhanh với công nghệ. Tuy nhiên, nhân lực dù đông nhưng lại thiếu những cá nhân xuất sắc. Để đào tạo ra được các cá nhân xuất sắc, cần đầu tư trọng điểm vào R&D và đào tạo tại những đại học hàng đầu để hình thành lực lượng lao động chất lượng.

Tôi cho rằng blockchain sẽ là công nghệ mũi nhọn, đóng góp lớn vào nền kinh tế số của Việt Nam trong những năm tới đây mặc dù sự cạnh tranh của các quốc gia trong khu vực rất gay gắt. Ngoài ra, công nghệ AI và dữ liệu lớn sẽ là những cánh tay nối dài. Tuy nhiên, với các công nghệ này, chúng ta cần tập trung ứng dụng và giải quyết vào các bài toán trong nước, bởi không có một quốc gia hay doanh nghiệp nước ngoài nào có thể giải quyết các bài toán của người Việt Nam tốt hơn chính người Việt Nam”.

Gỡ nút thắt, đón cơ hội: Các giải pháp triển khai Nghị quyết 57 - Ảnh 4

“Mục tiêu phủ sóng 5G toàn quốc vào năm 2030 cũng như phát triển một hạ tầng công nghệ số hiện đại, dung lượng siêu lớn, băng thông siêu rộng của Nghị quyết số 57-NQ/TW là hoàn toàn khả thi với Việt Nam, phù hợp với xu thế toàn cầu. Hiện tại, Việt Nam vẫn đang ở trạng thái “catch-up mode” - nghĩa là đang nỗ lực rút ngắn khoảng cách công nghệ so với các quốc gia khác do từng bị chậm trễ khoảng 10 năm trong việc phân bổ thêm phổ tần IMT (băng tần di động) dành cho 5G. Tuy nhiên, với các chính sách khuyến khích đầu tư hợp lý hiện nay, tôi tin rằng Việt Nam thậm chí có thể đạt được mục tiêu “phủ sóng 5G toàn quốc” sớm hơn.

Từ kinh nghiệm tư vấn và quan sát quốc tế, tôi nhận thấy có bốn yếu tố then chốt mà Việt Nam cần lưu ý để triển khai thành công mạng 5G diện rộng.

Thứ nhất, cạnh tranh. Sự cạnh tranh giữa các nhà mạng sẽ thúc đẩy họ cung cấp dịch vụ 5G hấp dẫn, từ đó tăng tốc độ tiếp cận của người dùng.

Thứ hai, cải thiện tốc độ và chất lượng kết nối. Người dùng sẽ chỉ đầu tư vào thiết bị 5G nếu trải nghiệm mạng tốt hơn rõ rệt, đòi hỏi cải thiện backhaul, mạng lõi và hạ tầng truyền dẫn.

Thứ ba, chính sách dữ liệu linh hoạt, trong đó các gói cước cần cung cấp dung lượng dữ liệu lớn hơn, đặc biệt với thuê bao trả sau, để khuyến khích sử dụng 5G.

Thứ tư, nội dung và ứng dụng hấp dẫn. Về vấn đề này, Chính phủ nên dẫn đầu trong việc cung cấp các ứng dụng thực tiễn như y tế, giáo dục, tài chính,... giúp người dân thấy rõ giá trị gia tăng từ 5G. Tôi cũng hy vọng Việt Nam có thể sản sinh ra những “kỳ lân công nghệ” với các ứng dụng 5G phù hợp, đáp ứng đặc thù của thị trường nội địa.

Quan sát các quốc gia ASEAN như Singapore, Malaysia và Thái Lan, tôi thấy rõ việc triển khai 5G đã mang lại tác động tích cực trong logistics, giao thông, sáng tạo nội dung số, tăng cường kết nối băng rộng di động. Riêng Malaysia, việc sở hữu hạ tầng viễn thông cạnh tranh đã giúp nước này nâng cao sức hấp dẫn đầu tư quốc tế – một bài học hữu ích cho Việt Nam khi triển khai theo định hướng Nghị quyết 57.

Gỡ nút thắt, đón cơ hội: Các giải pháp triển khai Nghị quyết 57 - Ảnh 5

Không chỉ phủ sóng mạng 5G, Nghị quyết 57 cũng chỉ rõ Việt Nam sẽ phát triển hạ tầng viễn thông, Internet, hệ thống truyền dẫn dữ liệu qua vệ tinh, mạng thông tin di động 6G và các thế hệ tiếp theo.

Với 6G – công nghệ kết nối siêu nhanh, độ trễ cực thấp, hỗ trợ kết nối vạn vật – Việt Nam cần chủ động chuẩn bị ngay từ bây giờ để không bị tụt lại phía sau. Ba ưu tiên lớn cần thực hiện là: (i), bảo đảm đủ phổ tần di động – đặc biệt là các khối phổ tần 200 MHz trong dải 3,5 GHz và 6 GHz, phục vụ 6G. (ii), tăng cường năng lực AI, vì 6G sẽ là mạng lưới “AI-native”, tức là AI đóng vai trò trung tâm trong quản lý, vận hành và tối ưu mạng. (iii), đào tạo đội ngũ chuyên gia mới, đặc biệt trong các lĩnh vực cảm biến (sensing), robot, và các công nghệ tiên phong.

Các cơ quan quản lý Việt Nam cần nâng cao tính linh hoạt, chủ động hơn trong việc ra quyết định, đồng thời hiểu rõ các động lực thương mại tác động đến đầu tư của nhà mạng. Sự hợp tác giữa Nhà nước – doanh nghiệp – nhà mạng là chìa khóa để phát triển hạ tầng viễn thông thế hệ mới.

Một khía cạnh rất quan trọng của 6G là nó sẽ mở ra không gian phát triển mới: “nền kinh tế tầm thấp” (Low Altitude Economy – LAE).  LAE là một khái niệm mới nổi, đề cập đến các hoạt động kinh tế diễn ra trong không gian tầm thấp. Các thành phần chính của nền kinh tế LAE bao gồm máy bay không người lái (UAV/drones), thiết bị bay cá nhân như taxi bay, phương tiện bay đô thị (urban air mobility); hệ thống cảm biến bay dùng để thu thập dữ liệu môi trường, hạ tầng, năng suất nông nghiệp; mạng lưới truyền dẫn tầm thấp, sử dụng vệ tinh tầng thấp (LEO) hoặc trạm phát sóng bay để tăng vùng phủ sóng 5G/6G… Các dịch vụ này sẽ không chỉ thay đổi phương thức sản xuất mà còn cả cách con người di chuyển và tương tác với hạ tầng số.

Do đó, việc quản lý không phận tầm thấp, quy định pháp lý cho UAV, hệ sinh thái dịch vụ bay tự động sẽ trở thành mặt trận mới của chuyển đổi số và phát triển hạ tầng số. Bối cảnh mới này đòi hỏi Việt Nam liên tục cập nhật khung pháp lý để quản lý các công nghệ mới như UAV, cảm biến địa không…”.

Gỡ nút thắt, đón cơ hội: Các giải pháp triển khai Nghị quyết 57 - Ảnh 6

“Việc các doanh nghiệp công nghệ của Việt Nam lựa chọn đăng ký kinh doanh tại nước ngoài, chẳng hạn như Singapore, không phải là điều đáng phê phán. Đây là nhu cầu chính đáng, xuất phát từ việc họ cần một môi trường thuận lợi để phát triển kinh doanh. Bởi vì Singapore có môi trường pháp lý rõ ràng, minh bạch và dễ tuân thủ. Bên cạnh đó, việc đặt trụ sở tại Singapore cũng giúp các công ty khởi nghiệp dễ dàng hơn trong việc xây dựng uy tín và gọi vốn, đặc biệt là từ các nhà đầu tư quốc tế.

Tuy nhiên, về dài hạn, để Việt Nam trở thành một trung tâm khởi nghiệp, “ươm mầm” các công ty công nghệ lớn mạnh, thì chúng ta cần thiết lập chính sách mang tính chiến lược dài hạn, từ vĩ mô đến vi mô.

Có một bất cập lý giải vì sao nhiều startup còn e ngại thành lập tại Việt Nam, đó là văn hóa thực thi pháp luật ở cấp cơ sở, tức những cơ quan thường xuyên tiếp xúc trực tiếp với doanh nghiệp, một phần còn gây khó dễ để xử phạt.

Tất nhiên, với những trường hợp đã được hướng dẫn nhiều lần mà vẫn cố tình vi phạm thì việc xử phạt là cần thiết. Nhưng đối với các vi phạm xuất phát từ sự thiếu hiểu biết, từ quy định còn mơ hồ, nếu cơ quan chức năng chỉ tiếp cận bằng tư duy xử phạt thì không thể tạo ra môi trường thuận lợi, cũng không khuyến khích sự phát triển của hệ sinh thái khởi nghiệp.

Vậy nên, việc ban hành chính sách ở tầm vĩ mô cần đi kèm với cải cách ở tầng vi mô, đặc biệt là trong cách hành xử của các cơ quan thực thi pháp luật như thanh tra, kiểm tra thuế, quản lý thị trường… những đơn vị thường xuyên “chạm mặt” doanh nghiệp.

Chúng ta cần xây dựng một văn hóa pháp lý mang tính hỗ trợ, tạo điều kiện, thay vì nhũng nhiễu để xử phạt. Nếu chính sách còn nhiều rào cản, doanh nghiệp sẽ hình thành tư duy phải “thân hữu chính trị”, dẫn tới họ chỉ tập trung vào khai thác các lợi ích ngắn hạn trong nước, còn để vươn ra thị trường quốc tế là điều vô cùng khó khăn.  Bởi ở thị trường quốc tế, không tổ chức nào cạnh tranh bằng quan hệ. Ở đó, doanh nghiệp chỉ có thể tồn tại và phát triển nhờ năng lực thực sự, từ nền tảng năng lực công nghệ, sáng tạo và tinh thần cạnh tranh sòng phẳng. Do vậy, nếu tư duy cũ vẫn tồn tại, thì giấc mơ để startup công nghệ Việt Nam vươn ra toàn cầu sẽ mãi xa vời.

Hệ sinh thái khởi nghiệp cần được đảm bảo minh bạch về pháp lý, cơ chế vận hành đồng bộ và đạt tiêu chuẩn toàn cầu. Nếu còn tồn tại những rào cản ngầm, thì chẳng khác nào bắt một cái cây phải lớn trên mảnh đất khô cằn, độc hại. Rõ ràng là bất khả thi.

Gỡ nút thắt, đón cơ hội: Các giải pháp triển khai Nghị quyết 57 - Ảnh 7

Vậy làm thế nào để nuôi dưỡng một “mảnh đất” tốt?

Môi trường vĩ mô cần phụ thuộc vào cách Nhà nước kiến tạo. Thứ nhất, một hệ sinh thái khởi nghiệp lành mạnh không thể hình thành nếu các chuẩn mực pháp luật không tiệm cận với thông lệ quốc tế. Trong khi đó, các chỉ số đánh giá môi trường kinh doanh của Việt Nam hiện vẫn còn ở mức thấp. Điều này có nghĩa chúng ta cần xem đâu là những điểm nghẽn trong từng lĩnh vực, ngành nghề, hoạt động của doanh nghiệp để tháo gỡ, từ đó giúp doanh nghiệp an tâm kinh doanh.

Thứ hai, xây dựng các chính sách hỗ trợ. Việt Nam thời gian qua cũng đã có nhiều hỗ trợ cho doanh nghiệp và đạt kết quả tích cực. Chúng ta đã phát triển các trung tâm khởi nghiệp, vườn ươm, không gian làm việc chung... hỗ trợ các startup bước đầu. Đây là hướng đi đúng, cần tiếp tục mở rộng. Tuy nhiên, cũng có vấn đề là, đối với tiêu chí để chọn doanh nghiệp được thụ hưởng hỗ trợ, làm sao đảm bảo tính minh bạch, công bằng, tránh tình trạng “thân hữu”, lựa chọn mang tính ưu ái thay vì dựa trên năng lực?

Thứ ba, xây dựng nguồn nhân lực chất lượng cao. Tiếp tục thúc đẩy sự gắn kết giữa các trường đại học với khu vực doanh nghiệp, không chỉ trong đào tạo lý thuyết mà cả kỹ năng, tư duy đổi mới và khả năng tham gia thị trường toàn cầu.

Thứ tư, đẩy mạnh sự tham gia của các hội nghề nghiệp, tổ chức trung gian hỗ trợ doanh nghiệp. Chẳng hạn, các startup trong giai đoạn đầu, họ không đủ nguồn lực để thuê chuyên gia pháp lý hay tư vấn chuyên sâu. Khi ấy, vai trò của các hiệp hội chuyên môn trở nên rất cần thiết để hỗ trợ họ trong việc tuân thủ quy định pháp lý.

Thế nhưng, thực tế việc thành lập hội nghề nghiệp ở Việt Nam cũng vô cùng gian nan. Quy trình thủ tục rườm rà kéo dài có khi cả vài năm, thậm chí phải “xin xỏ” mới được phê duyệt, đi ngược với tinh thần kiến tạo của Nhà nước.

Chưa cần so với các nước lớn, chỉ cần nhìn sang Thái Lan, Malaysia hay Indonesia, có thể thấy họ đang cạnh tranh rất quyết liệt để thu hút đầu tư, phát triển công nghệ và xây dựng hệ sinh thái đổi mới sáng tạo. Cơ hội về cơ bản là chia đều cho tất cả các quốc gia trong khu vực. Nhưng nước nào hiện thực hóa được cơ hội đó phải phụ thuộc vào cả định hướng chính sách phía trên và năng lực thực thi phía dưới.

Nghị quyết 68 về phát triển kinh tế tư nhân hay Nghị quyết 57 về phát triển khoa học, công nghệ và đổi mới sáng tạo đều là những văn kiện rất tiến bộ của Nhà nước. Định hướng đã có, nhưng cần xác định rõ đường đi. Muốn đi được xa, Việt Nam cần không chỉ một bản đồ tốt, mà phải có những “người dẫn đường” đủ năng lực và quyết tâm tháo gỡ từng nút thắt cụ thể. Chính sách phải được cụ thể hóa đến từng lĩnh vực, từng ngành nghề. Khi ấy doanh nghiệp sẽ tự đổi mới, tự vươn xa”.

Gỡ nút thắt, đón cơ hội: Các giải pháp triển khai Nghị quyết 57 - Ảnh 8

VnEconomty  27/05/2025 08:00

 

Nội dung đầy đủ của bài viết được đăng tải trên Tạp chí Kinh tế Việt Nam số 21-2025, phát hành ngày 26/5/2025. Kính mời Quý độc giả tìm đọc tại đây:  

https://postenp.phaha.vn/tap-chi-kinh-te-viet-nam/detail/1414

Gỡ nút thắt, đón cơ hội: Các giải pháp triển khai Nghị quyết 57 - Ảnh 9