Thưa Bộ trưởng, chúng ta đã bước vào năm Giáp Thìn 2024 với những cơ hội mới, vận hội mới. Tuy vậy, khó khăn sẽ tiếp tục bủa vây nền kinh tế và ảnh hưởng tới khu vực doanh nghiệp. Thực tế cho thấy một trong những vấn đề nổi lên trong năm 2023 là khả năng hấp thụ vốn yếu của doanh nghiệp. Từ góc độ người thiết kế chính sách, theo Bộ trưởng, đâu là giải pháp để trợ lực cho doanh nghiệp tiếp tục vượt qua những “cơn gió ngược” trong năm 2024?
Hiện nay, chúng ta có gần 920.000 doanh nghiệp đang hoạt động, tuy nhiên chủ yếu có quy mô nhỏ bé, với gần 98% là các doanh nghiệp có quy mô siêu nhỏ, nhỏ và vừa. Thời gian qua, các doanh nghiệp chưa kịp phục hồi hoàn toàn sau dịch bệnh Covid-19, lại tiếp tục phải đối diện với nhiều khó khăn thách thức do tác động của các bất ổn kinh tế, địa, chính trị thế giới. Do đó, với sức khỏe còn yếu thì các doanh nghiệp khó có thể hấp thụ được nguồn vốn. Để trợ lực cho doanh nghiệp, cần giải quyết vấn đề căn cơ, nguyên nhân gốc rễ thay vì xử lý vấn đề hiện tượng. Vì vậy, theo tôi cần tập trung vào 5 nhóm giải pháp có tính chiến lược.
Thứ nhất, nhanh chóng tháo gỡ những điểm nghẽn, rào cản pháp lý đang cản trở hoạt động đầu tư kinh doanh của doanh nghiệp.
Cần xác định rõ việc cải cách thể chế, tháo gỡ ngay các rào cản pháp lý, tạo môi trường đầu tư kinh doanh thuận lợi là giải pháp đặc biệt quan trọng trong bối cảnh hiện nay. Trong đó, cần tập trung giải quyết ngay những bất cập đã được doanh nghiệp phản ánh nhiều lần như quy định về phòng cháy chữa cháy, kiểm tra chuyên ngành... Tiếp tục rà soát, cắt giảm các điều kiện đầu tư kinh doanh, kiên quyết không ban hành thêm các điều kiện không cần thiết, điều kiện kinh doanh dưới hình thức các tiêu chuẩn kỹ thuật làm phát sinh chi phí, thủ tục, thời gian ảnh hưởng đến quyền lợi của người dân và doanh nghiệp.
Đồng thời, cần khẩn trương cụ thể hóa và tổ chức triển khai thực hiện cơ chế khuyến khích, bảo vệ cán bộ năng động, sáng tạo, dám nghĩ, dám làm, dám chịu trách nhiệm vì lợi ích chung tại Nghị định số 73/2023/NĐ-CP. Đây là điểm nghẽn quan trọng cần tiếp tục tháo gỡ trong thời gian tới.
Thứ hai, tiếp tục hỗ trợ doanh nghiệp giảm gánh nặng chi phí, tăng cường khả năng tiếp cận vốn và các nguồn lực hỗ trợ của Nhà nước.
Khẩn trương tháo gỡ khó khăn trong thủ tục hành chính như vấn đề hoàn thuế VAT mà các doanh nghiệp phản ánh trong thời gian dài; rà soát, cắt giảm một số chi phí còn bất hợp lý so với thực tiễn hoạt động kinh doanh như: chi phí kiểm dịch động vật, định mức chi phí tái chế, chi phí lưu kho bãi…; nghiên cứu chính sách giảm tỷ lệ đóng kinh phí công đoàn từ 2% xuống 1%. Rà soát tổng thể các chính sách về thuế hiện hành, nghiên cứu đề xuất sửa đổi, bổ sung chính sách ưu đãi thuế và lộ trình áp dụng cho các doanh nghiệp trong các lĩnh vực: phát triển xanh, bảo vệ môi trường, ứng phó với biến đổi khí hậu; khoa học, công nghệ và đổi mới sáng tạo; chuyển đổi số...
Tiếp tục rà soát chính sách tín dụng nhằm tiết giảm chi phí, hạ lãi suất vay vốn, tạo điều kiện thuận lợi cho các doanh nghiệp, nhất là doanh nghiệp nhỏ và vừa tiếp cận nguồn vốn. Thúc đẩy giải ngân các gói tín dụng hỗ trợ doanh nghiệp đã được ban hành. Nâng cao hiệu quả hoạt động các Quỹ bảo lãnh tín dụng cho doanh nghiệp nhỏ và vừa. Khẩn trương ban hành Quy định về Cơ chế thử nghiệm có kiểm soát trong lĩnh vực ngân hàng (Fintech).
Thứ ba, hỗ trợ doanh nghiệp tiếp cận thị trường mới, đẩy mạnh xuất khẩu và thúc đẩy tiêu dùng trong nước.
Các bộ, ngành, địa phương cần tiếp tục theo sát diễn biến tình hình kinh tế và các điều chỉnh chính sách của các thị trường lớn như Hoa Kỳ, EU, Trung Quốc, Nhật Bản,… kịp thời phổ biến thông tin, đưa ra cảnh báo sớm cho ngành hàng và cộng đồng doanh nghiệp. Thiết lập các đầu mối thông tin thị trường đối với các sản phẩm xuất khẩu trọng điểm của Việt Nam; nghiên cứu áp dụng mô hình hợp tác công tư, hình thành văn phòng xúc tiến du lịch ở nước ngoài.
Tích cực hỗ trợ cộng đồng doanh nghiệp tận dụng các cam kết tại các FTA đã ký kết, đẩy nhanh việc ký kết các FTA đang đàm phán và nghiên cứu các thị trường mới để đẩy mạnh xuất khẩu. Cảnh báo và cập nhật những thông tin mới nhất về các biện pháp phòng vệ thương mại, các tiêu chuẩn, kỹ thuật mới của các đối tác xuất khẩu. Thực hiện hiệu quả chương trình xúc tiến thương mại thị trường trong nước, nhất là thông qua các nền tảng số và thương mại điện tử.
Thứ tư, hỗ trợ người lao động, giải quyết việc làm và bảo đảm an sinh xã hội. Triển khai nhanh và hiệu quả chính sách hỗ trợ đoàn viên công đoàn, người lao động bị giảm thời gian làm việc, chấm dứt hợp đồng lao động do doanh nghiệp bị cắt, giảm đơn hàng; nghiên cứu triển khai kiến nghị của cộng đồng doanh nghiệp về việc dùng 100% kinh phí công đoàn và đoàn phí công đoàn để hỗ trợ trực tiếp, đào tạo cho người lao động tại doanh nghiệp, hỗ trợ doanh nghiệp giữ chân người lao động, chờ đợi thị trường phục hồi.
Thứ năm, đẩy mạnh triển khai các chính sách, giải pháp hỗ trợ doanh nghiệp chuyển đổi số, ứng dụng khoa học, công nghệ và đổi mới sáng tạo, tập trung vào các ngành: sản xuất chip bán dẫn, năng lượng mới (hydrogen)…; hoàn thiện thể chế khuyến khích doanh nghiệp ứng dụng các mô hình kinh doanh bền vững, các ngành công nghiệp mới và phát triển các ngành kinh tế số, kinh tế xanh, kinh tế tuần hoàn.
Bên cạnh đó, cộng đồng doanh nghiệp cũng cần nỗ lực thực hiện các giải pháp, hướng đi mạnh dạn, đột phá, sáng tạo và hiện đại, nắm bắt thời cơ, không chỉ để tự lớn mạnh mà còn đóng góp chung vào sự phát triển của đất nước. Tiếp tục nêu cao tinh thần dân tộc, phát huy tính chủ động, tự lực, tự cường, nỗ lực vượt qua khó khăn, thách thức; chủ động đổi mới mô hình sản xuất kinh doanh, tái cấu trúc doanh nghiệp; chú trọng đào tạo, nâng cao năng lực quản trị, chất lượng nguồn nhân lực; ứng dụng mạnh mẽ khoa học và công nghệ để biến thách thức thành cơ hội; tạo chuẩn giá trị mới, quan tâm hơn đến phục vụ người dân và nhu cầu trong nước; mở rộng thị trường, tiến tới tham gia vào chuỗi giá trị toàn cầu.
Về phía các tổ chức, hiệp hội doanh nghiệp cần chủ động nghiên cứu, đánh giá thách thức và thời cơ của ngành, lĩnh vực, kịp thời chia sẻ, hướng dẫn, hỗ trợ tư vấn cho doanh nghiệp hội viên và ngành hàng; đồng thời, đề xuất với Chính phủ các giải pháp, sáng kiến để phát triển doanh nghiệp, phục hồi nền kinh tế.
Không chỉ là tăng khả năng hấp thụ vốn cho doanh nghiệp, việc phát triển và nâng cao năng lực cạnh tranh của doanh nghiệp Việt Nam, để từng bước làm chủ công nghệ lõi, tiến sâu vào chuỗi giá trị toàn cầu, theo Bộ trưởng, cần được thực hiện như thế nào?
Xu hướng khoa học, công nghệ, đổi mới sáng tạo và Cách mạng công nghiệp lần thứ tư đang diễn biến rất nhanh, đột phá, tác động sâu, rộng và đa chiều trên phạm vi toàn cầu. ngày càng trở thành nhân tố quyết định đối với năng lực cạnh tranh của mỗi quốc gia. Hiện nay, công nghệ số và các doanh nghiệp công nghệ số được xác định là cốt lõi của mọi mô hình tăng trưởng nhanh và bền vững sẽ thúc đẩy phát triển kinh tế số, xã hội số, làm thay đổi phương thức quản lý nhà nước, mô hình sản xuất kinh doanh, tiêu dùng và đời sống văn hóa, xã hội.
Các doanh nghiệp Việt Nam đang phải đối mặt với những thách thức rất lớn trong bối cảnh mới. Cuộc sống con người, thói quen tiêu dùng, hoạt động sản xuất kinh doanh của doanh nghiệp đã và đang thay đổi nhanh chóng theo hướng số hóa các hoạt động, buộc các doanh nghiệp phải nỗ lực thay đổi và thích ứng.
Bên cạnh đó, phát triển khoa học, công nghệ và đổi mới sáng tạo là con đường tất yếu của các quốc gia nếu muốn phát triển nhanh, hiệu quả và bền vững, nhất là các nước đang phát triển, trong đó có Việt Nam. Đây là một chủ trương lớn, quan trọng, một định hướng mang tầm chiến lược của Đảng và Nhà nước để các doanh nghiệp không bị tụt hậu, và chúng ta có thể đảm bảo một tương lai phát triển bền vững.
Bối cảnh mới mở ra nhiều cơ hội cho doanh nghiệp, tuy nhiên các doanh nghiệp Việt Nam còn rất nhiều hạn chế về quy mô, năng lực, trình độ quản trị,… nếu không chủ động nâng cao năng lực cạnh tranh thì rất khó để nắm bắt được các cơ hội đó. Nghị quyết số 41-NQ/TW của Bộ Chính trị về xây dựng và phát triển đội ngũ doanh nhân thời kỳ mới đặt mục tiêu: “Phát triển đội ngũ doanh nhân Việt Nam có quy mô, năng lực và trình độ đáp ứng mục tiêu CNH, HĐH đất nước. Phấn đấu ngày càng có nhiều doanh nghiệp đạt tầm khu vực, một số doanh nghiệp lớn có vai trò dẫn dắt trong các ngành, lĩnh vực then chốt;… có vị thế, vai trò quan trọng trong chuỗi cung ứng, chuỗi giá trị toàn cầu,… có năng lực cạnh tranh quốc tế trong các ngành công nghiệp nền tảng, ưu tiên, mũi nhọn…”.
Để hỗ trợ doanh nghiệp nâng cao năng lực cạnh tranh, từng bước làm chủ công nghệ lõi, tiến sâu vào chuỗi giá trị toàn cầu, qua đó góp phần đạt được mục tiêu nêu ra tại Nghị quyết 41-NQ/TW nêu trên, Bộ Kế hoạch và Đầu tư cho rằng không chỉ Chính phủ, các bộ, ngành, địa phương, mà cả các doanh nghiệp cũng cần phải hành động từ sớm, từ xa, để vượt qua thách thức, chủ động thích ứng, tận dụng cơ hội, phát triển bền vững tạo ra những giá trị mới. Bộ Kế hoạch và Đầu tư kiến nghị một số nhiệm vụ, giải pháp trọng tâm như sau:
Thứ nhất, Chính phủ tiếp tục kiến tạo môi trường đầu tư kinh doanh công bằng, thông thoáng và minh bạch; bãi bỏ các rào cản, quy định về điều kiện kinh doanh không cần thiết, bất hợp lý. Tháo gỡ những điểm nghẽn trong huy động nguồn lực, sản xuất kinh doanh phù hơp với những quy định và cam kết quốc tế.
Thứ hai, Chính phủ cần nghiên cứu các chính sách khuyến khích đẩy mạnh hợp tác giữa doanh nghiệp và viện nghiên cứu, đại học; kết nối giữa người mua và bán, sản xuất và tiêu dùng để thúc đẩy hoạt động nghiên cứu, ứng dụng, chuyển giao công nghệ; nghiên cứu và thực hiện cơ chế thí điểm chính sách tạo động lực thương mại hóa, sớm đưa kết quả nghiên cứu vào sản xuất, kinh doanh.
Thứ ba, các bộ, ngành, địa phương chủ động hỗ trợ doanh nghiệp để: (i) kết nối đối tác mới, mở rộng thị trường để khắc phục đứt gãy chuỗi cung ứng; (ii) đa dạng hóa đối tác; (iii) giảm chi phí đầu vào cho doanh nghiệp; (iv) nâng cao năng lực cho các doanh nghiệp trong nước, phát triển công nghiệp hỗ trợ, qua đó thúc đẩy kết nối với doanh nghiệp FDI, doanh nghiệp lớn, từng bước tham gia bền vững vào chuỗi cung ứng toàn cầu, gia tăng giá trị sản xuất nội địa.
Thứ tư, các doanh nghiệp cần chủ động cập nhật, tiếp cận, ứng dụng công nghệ mới của cuộc Cách mạng công nghiệp lần thứ tư; tiên phong đổi mới sáng tạo; thực hiện chuyển đổi số, ứng dụng kinh tế xanh, kinh tế tuần hoàn, mạnh dạn đầu tư hình thành các trung tâm đổi mới sáng tạo tại doanh nghiệp; tập trung đầu tư vào những lĩnh vực mới, công nghệ kỹ thuật khoa học hiện đại.
Thứ năm, nhằm góp phần thực hiện các giải pháp trên, Bộ Kế hoạch và Đầu tư đã tham mưu xây dựng nhiều chính sách, triển khai nhiều hoạt động cụ thể như cụ thể hóa các chính sách của Luật Hỗ trợ doanh nghiệp nhỏ và vừa, xây dựng Trung tâm Đổi mới sáng tạo Quốc gia, triển khai Chương trình Hỗ trợ doanh nghiệp chuyển đổi số giai đoạn 2021-2025,... nhằm hỗ trợ các doanh nghiệp nâng cao năng lực, chuyển đổi số, chuyển đổi mô hình tăng trưởng, tham gia sâu hơn vào chuỗi giá trị toàn cầu. Trong thời gian tới, Bộ Kế hoạch và Đầu tư sẽ tiếp tục hỗ trợ doanh nghiệp Việt Nam thông qua việc thúc đẩy các chính sách, chương trình hỗ trợ doanh nghiệp để tận dụng được các công nghệ số.
Thưa Bộ trưởng, thời gian tới, Bộ Kế hoạch và Đầu tư sẽ có đề xuất gì để phát triển các doanh nghiệp “sếu đầu đàn” ở Việt Nam?
Phát triển doanh nghiệp, trong đó có doanh nghiệp quy mô lớn là một giải pháp quan trọng để nâng cao năng lực sản xuất, xây dựng nền kinh tế độc lập, tự chủ. Nghị quyết số 12-NQ/TW, Nghị quyết số 10-NQ/TW mà gần đây nhất là Nghị quyết số 41-NQ/TW, Nghị quyết số 29-NQ/TW đã đưa ra nhiệm vụ, giải pháp về xây dựng chính sách đột phá để hình thành, phát triển các doanh nghiệp dân tộc, doanh nghiệp quy mô lớn, có vai trò dẫn dắt một số ngành, lĩnh vực then chốt, trọng yếu; tăng cường cơ chế đặt hàng, giao nhiệm vụ cho một số doanh nghiệp lớn, có đủ năng lực thực hiện những nhiệm vụ có tính chiến lược, dẫn dắt quá trình công nghiệp hóa, hiện đại hóa.
Đây là những định hướng mới, có tính chất chiến lược, đột phá, thể hiện chủ trương, thông điệp của Đảng và Nhà nước về việc củng cố, phát triển hình thành đội ngũ doanh nhân, doanh nghiệp Việt Nam có bản sắc, thương hiệu nhằm xây dựng nền kinh tế độc lập, tự chủ. Kinh nghiệm quốc tế cho thấy trong giai đoạn đầu của cải cách kinh tế, các quốc gia công nghiệp hóa thành công đều gắn với vai trò dẫn dắt của doanh nghiệp lớn, những “doanh nghiệp đầu đàn”, “doanh nghiệp dân tộc” để tạo ra hệ sinh thái dẫn dắt sự phát triển của các doanh nghiệp nhỏ và vừa tham gia chuỗi sản xuất, chuỗi giá trị trong nước và quốc tế.
Những doanh nghiệp này luôn giữ vai trò trung tâm trong triển khai chính sách phát triển, là đầu tàu trong nhiều ngành lĩnh vực quan trọng của nền kinh tế. Đặc biệt trong bối cảnh mới, xu hướng phát triển dựa trên nền tảng khoa học, công nghệ và đổi mới sáng tạo đã tạo ra cả cơ hội lẫn thách thức. Các xu hướng năng lượng sạch, năng lượng mới như hydrogen xanh, pin xe điện, điện gió ngoài khơi hay công nghệ mới như chíp bán dẫn là động lực để các doanh nghiệp Việt Nam chuyển mình trong thời đại mới.
Hơn nữa, thời gian qua, các doanh nghiệp của chúng ta đã có sự dịch chuyển từ lượng sang chất, nổi lên một số doanh nghiệp tích lũy đủ năng lực về quy mô vốn, trình độ công nghệ và quản trị doanh nghiệp hiện đại, có thương hiệu vươn ra thị trường khu vực và thế giới. Một số doanh nghiệp đã gây được tiếng vang và khẳng định giá trị trên thị trường, như: Viettel, VNPT, PVN, Vietcombank, Tập đoàn Vingroup, ViejetAir, Thaco, Hòa Phát…
Do vậy, đây là thời điểm phù hợp để khơi thông nguồn lực, phát huy vị trí, vai trò của doanh nghiệp quy mô lớn trong giai đoạn phục hồi và phát triển kinh tế-xã hội của đất nước. Với góc nhìn đó, Bộ Kế hoạch và Đầu tư đang đề xuất với Thủ tướng Chính phủ về việc nghiên cứu Đề án “Xây dựng cơ chế, chính sách hình thành và phát triển doanh nghiệp dân tộc nhằm phát huy vai trò tiên phong trong một số ngành, lĩnh vực mới nổi, có lợi thế cạnh tranh nhằm xây dựng nền kinh tế độc lập, tự chủ”.
Đề án dự kiến nghiên cứu, lựa chọn các ngành, lĩnh vực Việt Nam có lợi thế cạnh tranh để đi tắt, đón đầu, trở thành ngành công nghiệp tương lai của đất nước, như: điện gió ngoài khơi, amoniac, hydrogen xanh, sản xuất thép, sản xuất ô tô điện, công nghiệp điện tử viễn thông, công nghiệp bán dẫn, kết cấu hạ tầng quan trọng quốc gia…
Đồng thời, Bộ Kế hoạch và Đầu tư sẽ đề xuất xây dựng một số cơ chế, chính sách ưu đãi, hỗ trợ để khuyến khích các doanh nghiệp quy mô lớn phát triển từ một phần nguồn lực, từ Quỹ hỗ trợ đầu tư, từ nguồn thu thuế tối thiểu toàn cầu và các nguồn vốn hợp pháp khác. Đây sẽ là nguồn lực quan trọng để hỗ trợ các doanh nghiệp đào tạo, phát triển nguồn nhân lực chất lượng cao, hỗ trợ phát triển hạ tầng cho các ngành công nghiệp mới: trung tâm nghiên cứu phát triển R&D, phòng lab, các trung tâm dữ liệu lớn; đồng thời, hình thành cơ chế đặt hàng, giao nhiệm vụ cho các doanh nghiệp thực hiện các dự án đầu tư quan trọng mang tính tiên phong, dẫn dắt thị trường.
Đối với doanh nghiệp quy mô lớn thuộc khu vực nhà nước, ngoài các chính sách hỗ trợ chung nêu trên, Bộ Kế hoạch và Đầu tư dự kiến đề xuất một số cơ chế, chính sách đặc thù để phát huy tối đa nguồn lực nắm giữ tại doanh nghiệp nhà nước phục vụ hoạt động đầu tư phát triển, như: (i) thực hiện phân cấp mạnh mẽ, trao quyền chủ động cho doanh nghiệp; (ii) đổi mới việc sử dụng Quỹ Phát triển khoa học và công nghệ của doanh nghiệp nhà nước để có nguồn lực đầu tư khởi nghiệp đổi mới sáng tạo (như fintech, cyber security, AI, robotics, viễn thông, các dự án đầu tư cho R&D hướng tới phát triển xanh và bền vững…); (iii) đổi mới phương thức quản trị doanh nghiệp (thí điểm thuê tổng giám đốc, khuyến khích áp dụng tiêu chuẩn môi trường - quản trị - doanh nghiệp (ESG)…
Tuy nhiên, việc xác định và phát triển “những con sếu đầu đàn” cũng như các chính sách cần thiết để hỗ trợ những doanh nghiệp này dẫn dắt các doanh nghiệp nhỏ và vừa cùng phát triển và đi đúng hướng là bài toán không dễ giải quyết được trong ngắn hạn, mà cần sự vào cuộc đồng bộ, tích cực của các cơ quan với những cơ chế chính sách đột phá để khơi thông nguồn lực, cùng với sự cam kết, quyết tâm mạnh mẽ của cộng đồng doanh nghiệp.
Năm 2024 tiếp tục là năm thử thách với cộng đồng doanh nghiệp. Trong bối cảnh này, Bộ trưởng có lời khuyên gì dành cho cộng đồng doanh nghiệp để vượt qua khó khăn?
Năm 2023, tình hình thế giới còn nhiều khó khăn, thách thức, hậu quả của dịch Covid-19 còn kéo dài, cạnh tranh chiến lược gia tăng, xung đột tại Ukraine và Dải Gaza diễn biến còn phức tạp, kinh tế thế giới tiếp tục xu hướng tăng trưởng giảm, lạm phát có chững lại nhưng neo ở mức cao, phục hồi chậm, cả tổng cung và tổng cầu đều khó khăn. Nhiều thị trường lớn của Việt Nam đều gặp khó khăn về tăng trưởng… Ở trong nước, nền kinh tế và khu vực doanh nghiệp chịu “tác động kép” từ các yếu tố bất lợi bên ngoài (nhất là thị trường xuất nhập khẩu, chuỗi cung ứng, đầu tư, tiền tệ, tài chính…).
Với tinh thần luôn đồng hành, sát cánh cùng doanh nghiệp, thời gian qua Chính phủ, Thủ tướng Chính phủ đã chỉ đạo sát sao các bộ, ngành, địa phương triển khai nhiều chính sách, giải pháp linh hoạt, hiệu quả, thích ứng với tình hình mới; chỉ đạo các Thành viên Chính phủ làm việc với các địa phương, thành lập các Tổ công tác đặc biệt của Thủ tướng, tăng cường trách nhiệm trong xử lý công việc của cán bộ, công chức nhằm kịp thời tháo gỡ các khó khăn, vướng mắc cho doanh nghiệp. Có thể khẳng định, các chính sách vừa qua đã phần nào chia sẻ được những tổn thất mà doanh nghiệp phải gánh chịu.
Theo đánh giá của các tổ chức uy tín quốc tế và chuyên gia, Việt Nam đang có một số lợi thế như: (i) kinh tế vĩ mô ổn định, môi trường đầu tư kinh doanh được cải thiện, niềm tin của các nhà đầu tư trong và ngoài nước được củng cố; (ii) các ngành kinh tế mới như: kinh tế số, kinh tế xanh, kinh tế tuần hoàn tạo cơ hội các doanh nghiệp Việt Nam hình thành các chuỗi giá trị, liên kết mới; (iii) 16 Hiệp định thương mại tự do đã ký kết tạo lợi thế cho các doanh nghiệp của Việt Nam tham gia vào chuỗi giá trị toàn cầu, đổi mới trang thiết bị, công nghệ nhằm nâng cao năng lực và sức cạnh tranh; (iv) vị thế, uy tín và vai trò của nước ta trên trường quốc tế ngày càng được nâng cao qua việc nâng cấp quan hệ đối tác chiến lược toàn diện với Hàn Quốc và Mỹ gần đây.
Bên cạnh những thuận lợi trên, tình hình trong nước và quốc tế còn tiềm ẩn nhiều nguy cơ và thách thức: (i) tăng trưởng kinh tế, chính sách tài khóa, tiền tệ của các nước lớn khó có thể chuyển biến nhanh trong ngắn hạn tạo rủi ro, sức ép lớn đến thị trường đầu ra và chi phí đầu vào của doanh nghiệp; (ii) các nước gia tăng áp dụng các biện pháp phòng vệ thương mại, xây dựng hàng rào kỹ thuật, yêu cầu của các thị trường về sản xuất xanh, bền vững đang đặt ra các thách thức lớn đối với doanh nghiệp trong nhiều ngành, lĩnh vực.
Trong bối cảnh cơ hội và thách thức đan xen, nhưng khó khăn, thách thức nhiều hơn, Bộ Kế hoạch và Đầu tư rất chia sẻ với những khó khăn của cộng đồng doanh nghiệp và mong rằng cộng đồng doanh nghiệp tiếp tục phát huy bản lĩnh vững vàng, tinh thần vượt khó, giữ vững niềm tin và khát vọng của doanh nhân Việt; chủ động cập nhật, tiếp cận, ứng dụng khoa học kỹ thuật, công nghệ mới, hiện đại vào sản xuất kinh doanh; biến thách thức thành cơ hội, không ngừng đổi mới, sáng tạo, xây dựng và nâng cao thương hiệu, văn hóa doanh nghiệp, doanh nhân, nâng cao năng lực cạnh tranh; tăng cường kết nối, nâng cao trình độ quản trị doanh nghiệp, tham gia sâu hơn vào chuỗi giá trị toàn cầu, chuyển đổi số quốc gia.
VnEconomy 26/02/2024 07:00
Nội dung đầy đủ của bài viết được đăng tải trên Tạp chí Kinh tế Việt Nam số 09-2024 phát hành ngày 26-02-2024. Kính mời Quý độc giả tìm đọc tại đây:
https://postenp.phaha.vn/chi-tiet-toa-soan/tap-chi-kinh-te-viet-nam