Ngân hàng Nhà nước vừa công bố một số kết quả chính của cuộc điều tra xu hướng kinh doanh của các tổ chức tín dụng quý 1/2023.
NHU CẦU TÍN DỤNG TĂNG CAO TRONG NỬA ĐẦU 2023
Báo cáo cho biết nhu cầu tín dụng tổng thể của khách hàng trong 6 tháng cuối năm 2022 được nhiều tổ chức tín dụng nhận định “tăng” cao hơn so với 6 tháng đầu năm 2022 và cao hơn cùng kỳ các năm 2020 - 2021, nhưng vẫn thấp hơn so với 6 tháng cuối năm 2019 - thời kỳ trước dịch bệnh Covid-19. Tính chung trong năm 2022, các tổ chức tín dụng nhận định, nhu cầu tín dụng tổng thể của khách hàng tăng cao hơn so với năm 2021 nhưng chưa đạt mức kỳ vọng.
“Dự báo tiếp tục “tăng” trong 6 tháng đầu năm 2023 và cả năm 2023 đối với tất cả các lĩnh vực, đối tượng, loại tiền và kỳ hạn; trong đó dự báo nhu cầu tín dụng ngắn hạn “tăng” cao hơn trung và dài hạn; nhu cầu vay vốn VND tăng cao hơn ngoại tệ”, báo cáo cho biết.
Trong các lĩnh vực cho vay, có 5 lĩnh vực được đánh giá có nhu cầu tín dụng tăng nhiều nhất trong 2022 gồm: Công nghiệp chế biến, chế tạo; Kinh doanh xuất, nhập khẩu; Mua nhà để ở; Đầu tư ngành dịch vụ logistics; Đầu tư ngành vận tải, kho bãi. Đáng chú ý, nhu cầu tín dụng đầu tư, kinh doanh du lịch được đánh giá đã phục hồi mạnh trở lại trong năm 2022.
“Sang năm 2023, công nghiệp chế biến chế tạo tiếp tục là lĩnh vực có số lượng tổ chức tín dụng dự báo nhu cầu tín dụng tăng nhiều nhất, xếp thứ 2 là lĩnh vực xây dựng thay vì lĩnh vực mua nhà để ở ghi nhận tại kỳ điều tra tháng 6/2022, tiếp theo là lĩnh vực đầu tư vận tải kho bãi và kinh doanh xuất nhập khẩu”, Ngân hàng Nhà nước cho biết.
Tương tự năm 2021-2022, dự kiến trong nửa đầu năm 2023 và cả năm 2023, diễn biến tăng trưởng kinh tế; cơ hội đầu tư, xuất, nhập khẩu thay đổi; diễn biễn lãi suất; thay đổi nhu cầu đầu tư vào sản xuất kinh doanh, tiêu dùng của khách hàng, chất lượng phục vụ cải thiện và thay đổi lãi suất cho vay là những nhân tố được nhiều tổ chức tín dụng dự báo ảnh hưởng tích cực đến sự gia tăng nhu cầu tín dụng của nhóm khách hàng doanh nghiệp.
Bên cạnh các nhân tố trên, nhân tố cải tiến sản phẩm cho vay của đơn vị được nhận định và dự kiến tác động nhiều nhất đến sự gia tăng nhu cầu vay vốn của nhóm khách hàng cá nhân trong năm 2022 và cả năm 2023.
Theo đó, có 3-6% tổ chức tín dụng nhận định nhu cầu tín dụng suy giảm, điều này là do nhân tố diễn biến lãi suất và thị trường bất động sản, khác với năm 2021 khi nhân tố diễn biến tăng trưởng kinh tế và cơ hội đầu tư, xuất nhập khẩu thay đổi được nhiều tổ chức tín dụng nhận định tác động tiêu cực nhất đến nhu cầu tín dụng.
THẮT CHẶT TÍN DỤNG BẤT ĐỘNG SẢN
Báo cáo cũng cho biết thêm, các tổ chức tín dụng đánh giá rủi ro tín dụng đối với các khoản vay ngắn hạn có tốc độ tăng chậm hơn so với rủi ro tín dụng của các khoản vay trung và dài hạn. Dự báo 6 tháng tới và năm 2023, các tổ chức tín dụng quan ngại mặt bằng rủi ro tín dụng tổng thể tiếp tục tăng nhẹ ở hầu hết các lĩnh vực ngoại trừ một số lĩnh vực cho vay phát triển nông, lâm, thủy sản, cho vay đầu tư ứng dụng công nghệ cao, cho vay đầu tư công nghiệp hỗ trợ, cho vay công nghiệp chế biến chế tạo được kỳ vọng rủi ro giảm.
Thực tế, trong 6 tháng đầu năm 2023, có 67,3-71,3% tổ chức tín dụng dự kiến “không đổi”; 21,7- 16,1% tổ chức tín dụng dự kiến “thắt chặt” và 10-12,6% tổ chức tín dụng dự kiến “nới lỏng” các điều khoản, điều kiện cho vay tổng thể tương ứng đối với nhóm khách hàng doanh nghiệp (chủ yếu “thắt chặt” đối với lĩnh vực cho vay đầu tư kinh doanh bất động sản, cho vay kinh doanh chứng khoán) và nhóm khách hàng cá nhân.
Trong đó, các tổ chức tín dụng nhận định và dự kiến chủ yếu “thắt chặt” đối với yêu cầu về tài sản bảo đảm, các điều khoản bổ sung trong hợp đồng tín dụng, yêu cầu điểm xếp hạng tín nhiệm tối thiểu của khách hàng và hạn mức tín dụng để đảm bảo an toàn; trong khi tiếp tục nỗ lực thu hẹp chênh lệch giữa lãi suất cho vay và chi phí vốn bình quân đối với hoạt động cho vay sản xuất kinh doanh để hỗ trợ nền kinh tế.
Trong 6 tháng đầu năm 2023 và cả năm 2023, 4 lĩnh vực “Bán buôn, bán lẻ”; “xuất, nhập khẩu”; “cho vay phục vụ nhu cầu đời sống” và “Sản xuất thức ăn và đồ uống” tiếp tục có tỷ lệ tổ chức tín dụng dự kiến là động lực tăng trưởng tín dụng của hệ thống cao nhất.