Bộ Giao thông vận tải vừa có Tờ trình số 10618/TTr – BGTVT đề nghị Thủ tướng Chính phủ phê duyệt quy hoạch mạng lưới đường sắt thời kỳ 2021-2030, tầm nhìn đến năm 2050.
Theo đó, mục tiêu đến năm 2030, khối lượng vận chuyển hàng hóa đường sắt đạt 11,8 triệu tấn, gấp 2,3 lần so với năm 2019, chiếm thị phần khoảng 0,27%. Khối lượng vận chuyển hành khách đạt 460 triệu khách, chiếm thị phần 4,4%, trong đó đường sắt quốc gia là 21,5 triệu khách, gấp 2,7 lần năm 2019.
Về kết cấu hạ tầng, giai đoạn 2021-2030 sẽ đầu tư nâng cấp, cải tạo đảm bảo an toàn 7 tuyến đường sắt hiện hữu. Đáng lưu ý, hai đoạn của tuyến đường sắt tốc độ cao Bắc-Nam, gồm đoạn Hà Nội-Vinh, Nha Trang - TP. Hồ Chí Minh sẽ ưu tiên triển khai đầu tư trong giai đoạn này.
Đồng thời, ưu tiên xây dựng một số tuyến đường sắt kết nối cảng biển cửa ngõ quốc tế đặc biệt khu vực Hải Phòng và Bà Rịa-Vũng Tàu; kết nối TP. Hồ Chí Minh với Cần Thơ, kết nối quốc tế với Trung Quốc, Lào và Campuchia phù hợp với các hiệp định vận tải quốc tế và đồng bộ với tiến độ đầu tư của các nước trong khu vực.
Trong giai đoạn đến năm 2050 sẽ hoàn thành tuyến đường sắt tốc độ cao Bắc-Nam. Tiếp tục đầu tư hoàn thành các tuyến đường sắt mới tại khu đầu mối Hà Nội, TP. Hồ Chí Minh, đường sắt kết nối các cảng biển, khu công nghiệp, khu kinh tế, kết nối các tỉnh Tây Nguyên, đường sắt ven biển, đường sắt xuyên Á. Đồng thời, duy trì, cải tạo, nâng cấp các tuyến tuyến đường sắt hiện hữu đáp ứng nhu cầu vận tải hành khách và hàng hóa.
Quy hoạch lần này đề xuất giãn lộ trình đầu tư từ 2030 sang tầm nhìn 2050 đối với 8 tuyến; chuyển tuyến đường sắt Thủ Thiêm - Long Thành hiện có trong quy hoạch giao thông vận tải TP. Hồ Chí Minh vào quy hoạch này.
Theo tính toán của Bộ Giao thông vận tải, tổng nhu cầu vốn đến năm 2030 để phát triển kết cấu hạ tầng đường sắt khoảng 240 nghìn tỷ đồng, được huy động từ nguồn vốn ngân sách nhà nước, vốn ngoài ngân sách và các nguồn vốn hợp pháp khác.
Mức đầu tư cho đường sắt đạt 3,5 - 4,5% GDP, bảo đảm tỷ lệ cơ cấu nguồn vốn nhà nước hợp lý cho đầu tư phát triển kết cấu hạ tầng đường sắt trong cơ cấu tổng nguồn vốn của ngành giao thông vận tải để thực hiện mục tiêu quy hoạch đến năm 2030, nhất là mục tiêu triển khai đầu tư hai đoạn đường sắt tốc độ cao Bắc – Nam.
Để sớm phê duyệt 5 bộ quy hoạch chuyên ngành giao thông vận tải nói chung, Thủ tướng Chính phủ yêu cầu việc xây dựng các quy hoạch phải bảo đảm tính mở, dễ thực hiện, có sự gắn kết với các quy hoạch chuyên ngành khác tạo thành hệ thống tổng thể, thống nhất, tránh manh mún chia cắt; bảo đảm tầm nhìn xa, có chiến lược lâu dài, khả thi, chống tiêu cực trong xây dựng và thực hiện quy hoạch.
Bộ Giao thông vận tải cần nghiên cứu đa dạng hóa nguồn lực đầu tư cho kết cấu hạ tầng giao thông như vốn nhà nước, doanh nghiệp, phát hành trái phiếu, ODA, quỹ đầu tư phát triển và các nguồn vốn hợp pháp khác; sắp xếp thứ tự ưu tiên nghiên cứu đầu tư phù hợp với khả năng cân đối và bố trí nguồn lực.
Trong đó, thực hiện phân cấp, phân quyền trong quản lý đầu tư xây dựng nhằm huy động tối đa nguồn lực của các địa phương; tăng cường kiểm tra, giám sát, không để xảy ra tiêu cực, lãng phí gây thất thoát nguồn lực của Nhà nước và xã hội.
Mạng lưới đường sắt quốc gia thời kỳ 2021-2030 được quy hoạch theo 16 tuyến với chiều dài 4.871km. Trong đó, có 7 tuyến chính hiện hữu với chiều dài khoảng 2.440km và quy hoạch để chuẩn bị, thực hiện đầu tư 9 tuyến đường sắt với chiều dài 2.362km.
Đến năm 2050 mạng lưới đường sắt quốc gia được quy hoạch bao gồm 25 tuyến với chiều dài 6.354km; tăng thêm 9 tuyến so với kỳ quy hoạch đến năm 2030 với chiều dài tăng thêm là 1.441km.