Thông tin trên được nêu lên tại Tọa đàm: "Vai trò của viên nén trong chuyển đổi nhiên liệu nồi hơi – Hướng tới nền sản xuất phát thải thấp tại Việt Nam" do Chi hội Viên nén (Hiệp hội Gỗ và Lâm sản Việt Nam) phối hợp với Hội Khoa học kỹ thuật Nhiệt Việt Nam và Tổ chức Forest Trends tổ chức cuối tuần qua.
NỒI HƠI CÔNG NGHIỆP PHẦN LỚN VẪN ĐỐT BẰNG THAN
Ông Trần Văn Lượng, Chủ tịch Hội Khoa học kỹ thuật nhiệt Việt Nam, cho biết trong sản xuất công nghiệp, nồi hơi công nghiệp là một thiết bị quan trọng. Nồi hơi là thiết bị chuyển đổi năng lượng từ nhiên liệu (điện, than, dầu, khí, sinh khối...) với việc đối cháy các nhiên liệu để làm nóng nước, tạo ra hơi nước nóng và nhiệt phục vụ năng lượng cho vận hành các máy móc sản xuất hàng hóa.
Nhiều ngành công nghiệp đang sử dụng nồi hơi như: dệt may, giày da, nhựa, thuốc lá, thực phẩm, rượu, bia, nước giải khát, thủy sản, chế biến nông nghiệp, sản xuất hóa chất, phân bón, tuyển khoáng, sản xuất đường, sản xuất cao su...
Theo ông Lượng, hiện nay tại Việt Nam chưa có một thống kê đầy đủ chính thức về số lượng nồi hơi công nghiệp. Thông tin từ nguồn các tổ chức kiểm định nồi hơi hàng năm và đăng ký tại cơ quan quản lý nhà nước về lao động, ước tính tại Việt Nam có khoảng 9.000 nồi hơi công nghiệp đang hoạt động. Phần lớn các cơ sở này vẫn sử dụng nguồn than đá để vận hành hệ thống nồi hơi.
Ông Trần Văn Lượng cho rằng hiện đang là cơ hội đối với doanh nghiệp chuyển đổi nồi hơi đốt than sang sinh khối (biomass), qua đó sẽ giảm phát thải khí nhà kính, đáp ứng yêu cầu về môi trường góp phần thực hiện cam kết của chính phủ Việt Nam. Đây cũng là cơ hội cho các nhà máy công nghiệp tham gia thị trường carbon nội địa trong tương lai. Đồng thời, xây dựng hình ảnh doanh nghiệp sản xuất xanh, nâng khả năng cạnh tranh sản phẩm trên thị trường trong nước và quốc tế.
"Nhiều doanh nghiệp đã và đang thực hiện việc chuyển đổi nồi hơi sang sử dụng sinh khối. Các doanh nghiệp này này nằm trong chuỗi cung toàn cầu, ví dụ các nhà cung ứng cho các hãng hàng lớn như Adidas, Nike, Samsung...; một số cơ sở nằm trong các khu công nghiệp nơi có các cam kết về phát thải thấp, chuyển đổi xanh... "
Ông Trần Văn Lượng, Chủ tịch Hội Khoa học kỹ thuật nhiệt Việt Nam.
Thống kê cho thấy khoảng 5% tổng lượng viên nén sản xuất tại Việt Nam hiện đang được sử dụng nội địa, chủ yếu đưa vào hệ thống nồi hơi của các cơ sở sản xuất quy mô nhỏ trong một số lĩnh vực đề cập ở trên.
"Mặc dù Chính phủ chưa yêu cầu các cơ sở quy mô nhỏ này phải giảm phát thải, một số cơ sở đã tiên phong, tự nguyện thay thế một phần hoặc toàn bộ lượng than đá sử dụng cho hệ thống nồi hơi của mình sang viên nén gỗ”, ông Trần Văn Lượng chia sẻ.
CẦN CHÍNH SÁCH THÚC ĐẨY CHUYỂN ĐỔI NHIÊN LIỆU NỒI HƠI
TS. Tô Xuân Phúc, Chuyên gia của Forest Trends, cho biết hàng năm Việt Nam sản xuất khoảng hơn 5 triệu tấn viên nén. Trong đó, khoảng 95% lượng viên nén sản xuất tại Việt Nam được xuất khẩu, chủ yếu sang thị trường Nhật Bản và Hàn Quốc.
Báo cáo của Tổ chức Forest Trends cho thấy năm 2022, xuất khẩu viên nén gỗ bùng nổ với lượng xuất xấp xỉ 4,9 triệu tấn, kim ngạch đạt gần 790 triệu USD, tăng gần gấp đôi so với năm 2021 do giá viên nén tăng cao. Năm 2023, kim ngạch xuất khẩu viên nén giảm nhẹ, đạt hơn 4,6 triệu tấn với giá trị gần 680 triệu USD.
Hàn Quốc và Nhật Bản vẫn là hai thị trường nhập khẩu viên nén lớn nhất của Việt Nam, chiếm tỷ trọng 96% tổng lượng và 96,6% tổng kim ngạch xuất khẩu cả nước. Trong năm 2023, Nhật Bản nhập khẩu hơn 2,8 triệu tấn viên nén của Việt Nam, tương đương hơn 438 triệu USD (tăng 12,4% về lượng và 14,3% về giá trị so với năm 2022).
Trong khi đó, Hàn Quốc chỉ nhập khẩu hơn 1,7 triệu tấn viên nén, trị giá gần 214 triệu USD (giảm 24,5% về lượng và 43,3% về giá trị so với năm 2022). Nguyên nhân xuất khẩu viên nén sang Hàn Quốc giảm là do các doanh nghiệp Hàn Quốc có thêm các nguồn cung khác, ví dụ như nguồn cung viên nén giá rẻ từ Nga.
TS. Tô Xuân Phúc nhận định thị trường Nhật Bản tiếp tục đóng vai trò quan trọng đối với ngành viên nén Việt Nam trong thời gian tới. Các doanh nghiệp Việt Nam còn có cơ hội thay thế nguồn cung viên nén từ Indonesia cho thị trường Nhật Bản, bởi nguồn cung viên nén làm từ vỏ dầu cọ có nguồn gốc từ Indonesia có thể sẽ không đạt được chứng chỉ bền vững theo yêu cầu của thị trường Nhật Bản.
"Cùng với các quy chuẩn, tiêu chuẩn về nồi hơi đốt nhiên liệu sinh khối cần có cơ chế chính sách hỗ trợ các doanh nghiệp công nghiệp chuyển đổi nồi hơi đốt nhiên liệu hóa thạch sang đốt sinh khối".
Ông Trần Văn Lượng, Chủ tịch Hội Khoa học kỹ thuật nhiệt Việt Nam.
Theo TS Tô Xuân Phúc, Chính phủ Việt Nam cam kết mạnh mẽ với mục tiêu mức phát thải Net-Zero vào năm 2050. Để đạt mục tiêu này Chính phủ đã ban hành một số cơ chế, chính sách; trong đó có Nghị định 06/2022/NĐ-CP yêu cầu các cơ sở sản xuất có mức phát thải cao cũng như các bộ ngành phải giảm phát thải khí nhà kính. Chính phủ đang thiết kế các cơ chế chính sách cần thiết để xây dựng thị trường tín chỉ carbon trong nước. Với cam kết Net-Zero của Chính phủ, dư địa cho việc sử dụng viên nén tại thị trường nội địa là rất lớn.
“Tuy nhiên, hiện các cơ chế chính sách về giảm phát thải khí nhà kính mới chỉ tập trung vào các cơ sở có mức phát thải cao, chủ yếu là ngành công nghiệp nặng như năng lượng, sản xuất hóa chất công nghiệp, vận tải. Trong khi đó, các cơ sở sản xuất quy mô nhỏ trong lĩnh vực dệt, nhuộm, chế biến bia, nước ngọt, hệ thống lò sấy… có sử dụng nồi hơi công nghiệp hiện chưa được quan tâm, nhiều cơ sở này vẫn đang sử dụng nguồn than đá để vận hành hệ thống nồi hơi”, TS Phúc nêu thực tế.
Tại toạ đàm, các chuyên gia đã nêu ra những thực trạng thách thức hiện nay đối với doanh nghiệp chuyển nồi hơi đốt sang sinh khối (biomass), trong đó có viên nén. Đó là doanh nghiệp thiếu vốn đầu tư cho việc chuyển đổi; thiếu các tiêu chuẩn, quy chuẩn về chế tạo nồi hơi đốt biomass; năng lực thiết kế, chế tạo của nhiều nhà chế tạo nồi hơi còn hạn chế. Bên cạnh đó, chi phí đầu tư nồi hơi mới cao, chi phí cho phần cải tạo và chi phí do dừng sản xuất là các doanh nghiệp cần tính đến khi thực hiện chuyển đổi.
Một trong những thách thức nữa là thị trường carbon nội địa chưa hình thành nên chưa tạo thành động lực cho doanh nghiệp. Điều này cho thấy cần nhanh chóng có các cơ chế, chính sách và các hành động cụ thể để hình thành cầu thị trường thông qua các cơ chế bắt buộc hoặc khuyến khích các cơ sở nội địa chuyển đổi từ nhiên liệu hóa thạch sang các dạng năng lượng tái tạo.
Đồng thời cần tăng cường nâng cao nhận thức cho người sử dụng nồi hơi của các doanh nghiệp, đặc biệt là các doanh nghiệp vừa và nhỏ về kiến thức sử dụng năng lượng hiệu quả phát thải thấp, hướng tới tham gia thị trường carbon khi thị trường carbon vận hành.