Theo thống kê từ Công ty Chứng khoán MBS, lũy kế từ đầu năm, tổng giá trị trái phiếu doanh nghiệp phát hành đạt hơn 57.100 tỷ đồng, tăng 62% so với cùng kỳ. Lãi suất trái phiếu doanh nghiệp bình quân gia quyền trong 5 tháng đầu năm ước khoảng 9,3%, cao hơn so với mức trung bình 8,3% của năm 2023.
Bất động sản vẫn là nhóm ngành có giá trị phát hành cao nhất với khoảng 25.300 tỷ tăng 4% so với cùng kỳ năm ngoái chiếm tỷ trọng 44%, lãi suất bình quân gia quyền là 12,3%/năm, kỳ hạn bình quân 2,4 năm. Các doanh nghiệp phát hành giá trị lớn nhất bao gồm: Công ty CP Vinhomes (10 nghìn tỷ đồng), Tập đoàn Vingroup – CTCP (10 nghìn tỷ đồng), CT TNHH Đầu tư và Phát triển Bất động sản Hải Đăng (2,5 nghìn tỷ đồng).
Xếp sau là nhóm ngành Ngân hàng với tổng giá trị phát hành đạt 19.900 tỷ đồng (cùng kỳ năm 2023 giá trị phát hành là 400 tỷ đồng), tỷ trọng 35%. Lãi suất bình quân gia quyền của trái phiếu ngân hàng vẫn là 5,3%/năm, kỳ hạn bình quân là 4,8 năm.
Các ngân hàng phát hành giá trị lớn nhất bao gồm: NH TMCP Phát triển Thành phố Hồ Chí Minh (5 nghìn tỷ đồng), NH TMCP Kỹ thương Việt Nam (4,5 nghìn tỷ đồng) và NH TMCP Hàng Hải Việt Nam (3,8 nghìn tỷ đồng).
Theo dự báo mới nhất của VIS Rating, dự kiến trong 1-3 năm tới, các ngân hàng sẽ cần 283 nghìn tỷ đồng trái phiếu tăng vốn cấp 2 để hỗ trợ nguồn vốn nội bộ và duy trì tỷ lệ an toàn vốn.
Cụ thể, theo VIS Rating, trong 5 năm qua, các ngân hàng Việt Nam ngày càng phụ thuộc nhiều hơn vào nguồn vốn thị trường để đáp ứng nhu cầu vốn dài hạn và đảm bảo các yêu cầu về an toàn vốn cho tăng trưởng kinh doanh trong bối cảnh tăng trưởng tiền gửi chậm lại.
Các ngân hàng tăng cường phát hành trái phiếu dài hạn để bổ sung nguồn vốn và an toàn vốn nhằm tuân thủ các quy định về tỷ lệ an toàn hoạt động. Các ngân hàng đã phát hành tổng cộng 196 nghìn tỷ đồng trái phiếu trong năm 2023, cao hơn mức 104 nghìn tỷ đồng năm 2019; và trái phiếu tăng vốn cấp 2 chiếm 35% quy mô trái phiếu phát hành.
Các ngân hàng sử dụng nguồn vốn phát hành trái phiếu để hỗ trợ cho các khoản cho vay dài hạn và đáp ứng các tỷ lệ theo quy định: kiểm soát tỷ lệ vốn ngắn hạn cho vay trung và dài hạn dưới 30% và tỷ lệ cho vay trên tiền gửi ở mức 85%.
Trong khi đó, các ngân hàng quốc doanh và một số các ngân hàng tư nhân quy mô nhỏ sử dụng nhiều trái phiếu tăng vốn cấp 2 hơn trong cơ cấu vốn của mình để khắc phục những hạn chế trong việc huy động vốn cổ phần và hỗ trợ nguồn vốn cấp 1 đang ở mức thấp.
VIS Rating kỳ vọng ngành ngân hàng sẽ phát hành hơn 283 nghìn tỷ đồng trái phiếu tăng vốn cấp 2 trong ba năm tới. Khoảng 55% trái phiếu tăng vốn cấp 2 mới sẽ được phát hành bởi các ngân hàng quốc doanh do vốn cấp 2 của các ngân hàng này sẽ bị khấu trừ đáng kể. Theo quy định, trái phiếu tăng vốn cấp 2 đang lưu hành được tính vào vốn tự có sẽ bị khấu trừ khoảng 20% mỗi năm trong 5 năm cuối của kỳ hạn trái phiếu.
Các ngân hàng sẽ cần phát hành trái phiếu tăng vốn cấp 2 mới để thay thế các trái phiếu bị khấu trừ và tăng mức an toàn vốn. Một vài ngân hàng tư nhân nhỏ có khả năng sinh lời yếu sẽ phát hành trái phiếu tăng vốn cấp 2 để hỗ trợ 3-4% tỷ lệ an toàn vốn. Ngoài ra, một số ngân hàng tư nhân quy mô vừa và lớn sẽ sử dụng trái phiếu tăng vốn cấp 2 để hỗ trợ mục tiêu tăng trưởng tín dụng cao.
Cũng theo VIS Rating, nhu cầu đầu tư trái phiếu tăng vốn cấp 2 của các nhà đầu tư cá nhân vẫn duy trì ở mức cao. Nhà đầu tư cá nhân nắm giữ phần lớn trái phiếu tăng vốn cấp 2 được chào bán ra công chúng, chủ yếu là do lợi suất của các trái phiếu này cao hơn so với tiền gửi và trái phiếu thường. Trái phiếu ngân hàng chủ yếu được phát hành riêng lẻ để giúp các tổ chức phát hành huy động vốn trong khoảng thời gian ngắn với các yêu cầu tối thiều về hồ sơ và tài liệu quy định.
Ngân hàng sẽ đẩy mạnh phát hành trái phiếu tăng vốn cấp 2 ra công chúng nhiều hơn để có thể khai thác nhu cầu mạnh mẽ của nhà đầu tư cá nhân, vì các tổ chức phát hành sẽ không còn được phát hành riêng lẻ cho các nhà đầu tư cá nhân không phải là nhà đầu tư chuyên nghiệp.
"Tuy nhiên, các nhà đầu tư cần nhận thức được những rủi ro đến từ sản phẩm đầu tư này, ví dụ như không được bảo lãnh thanh toán hoặc bảo hiểm chậm thanh toán và có thể bị mua lại trước hạn", các chuyên gia của VIS Rating cảnh báo.