Chiều 24/9, Phó Thủ tướng Trần Hồng Hà chủ trì phiên họp thứ 3 của Tổ công tác giúp việc Ban Chỉ đạo về tiến độ triển khai các công trình, dự án đường sắt đô thị thành phố Hà Nội và TP Hồ Chí Minh.
DỰ KIẾN ĐẾN NĂM 2035 HOÀN THÀNH 580KM ĐƯỜNG SẮT ĐÔ THỊ
Báo cáo tại phiên họp, ông Nguyễn Danh Huy, Thứ trưởng Bộ Giao thông Vận tải cho biết mạng lưới đường sắt đô thị ở Hà Nội và TP Hồ Chí Minh là đường đôi, có khổ đường 1.435 mm, với tốc độ thiết kế từ 80 tới 160 km/h. Ngoài ra, hệ thống cấp điện trên cao hoặc cấp điện ray thứ 3 và được vận hành tự động với phương tiện sử dụng đoàn tàu động lực phân tán EMU.
Thứ trưởng Bộ Giao thông Vận tải nhấn mạnh dự kiến, đến năm 2035, Hà Nội và TPHCM sẽ hoàn thành các tuyến đường sắt đô thị theo quy hoạch hiện có, tổng chiều dài khoảng 580 km. Năm 2045 hoàn thành khoảng 369,1 km, trong đó Hà Nội có thêm khoảng 200,7 km và TP Hồ Chí Minh thêm khoảng 168,4 km. Năm 2060 hoàn thành thêm khoảng 158,66 km tại TP Hồ Chí Minh. Hai thành phố phấn đấu đến năm 2035, đường sắt đô thị chiếm tỉ trọng 30 - 35% thị phần vận tải hành khách công cộng, sau năm 2035 sẽ tăng lên 55 - 70%.
Lãnh đạo hai thành phố cho biết các tuyến đường sắt đô thị đã được nghiên cứu bước đầu, chuẩn bị quy hoạch không gian ngầm, quỹ đất, tính toán các khu vực phát triển đô thị, thương mại, dịch vụ dọc theo tuyến. Đồng thời kết nối tuyến đường sắt đô thị với tuyến đường sắt quốc gia cũng như các đầu mối giao thông quan trọng khác.
Ngay sau khi đề án phát triển hệ thống đường sắt đô thị ở Hà Nội và TP Hồ Chí Minh được phê duyệt, hai địa phương tiếp tục xây dựng báo cáo nghiên cứu tiền khả thi dự án, quy hoạch chi tiết cũng như chuẩn bị các dự án đầu thầu theo lộ trình. Trong đó đặc biệt lưu ý đến những đề xuất cơ chế, nhóm chính sách đặc thù.
Dự kiến, cơ cấu nguồn vốn đầu tư hệ thống đường sắt đô thị dự kiến từ ngân sách địa phương, vốn vay, ngân sách Trung ương hỗ trợ và các nguồn hợp pháp khác. Đồng thời kêu gọi các nhà đầu tư tư nhân quan tâm đầu tư xây dựng các tuyến đường sắt đô thị, nhà ga kết hợp trung tâm thương mại, phương tiện khai thác.
Song song với đó, hai thành phố sẽ thành lập, kết hợp tận dụng tối đa nhân lực hiện có, phối hợp với các cơ sở giáo dục đại học, nghề nghiệp trong và ngoài nước để thực hiện đào tạo nhân lực, kết hợp với các dự án đường sắt quốc gia, đường sắt tốc độ cao nhằm phát triển công nghiệp đường sắt Việt Nam.
KHẨN TRƯƠNG HOÀN THIỆN HAI ĐỀ ÁN PHÁT TRIỂN ĐƯỜNG SẮT ĐÔ THỊ
Với chủ trương hệ thống đường sắt phải đi trước trong định hướng phát triển đô thị, Phó Thủ tướng, Trần Hồng Hà nhấn mạnh đề án đường sắt đô thị TP. Hà Nội và TP Hồ Chí Minh cần phải trả lời được những câu hỏi lớn về những dự án, công trình phải làm ngay; công tác nghiên cứu, quy hoạch, chuẩn bị, thiết kế hạ tầng đường sắt cho đô thị; tính thống nhất với mạng lưới đường sắt tốc độ cao của cả nước; lựa chọn công nghệ xây dựng công trình ngầm, đầu máy, toa xe, quản lý, vận hành, đào tạo nhân lực… Để từ đó, xây dựng ngành công nghiệp đường sắt đồng bộ, hiện đại; khả năng cân đối nguồn vốn đầu tư…
Ngoài ra, Phó Thủ tướng đánh giá cao nội dung dự thảo hai đề án phát triển đường sắt đô thị của Hà Nội, TP Hồ Chí Minh đã được chuẩn bị kỹ lưỡng, công phu, bài bản, vừa thống nhất, vừa có cách tiếp cận, phân kỳ thực hiện phù hợp đặc thù của từng địa phương.
Phó Thủ tướng yêu cầu lãnh đạo Hà Nội và TP Hồ Chí Minh tiếp tục phối hợp chặt chẽ với Bộ Giao thông Vận tải, tiếp thu đầy đủ ý kiến của các bộ, ngành liên quan, khẩn trương hoàn thiện hai đề án để báo cáo Bộ Chính trị. Trong đó tập trung làm rõ bối cảnh, tình hình triển khai các dự án đường sắt đô thị tại mỗi thành phố; việc bổ sung quy hoạch không gian ngầm cho đường sắt đô thị tại TP Hồ Chí Minh; huy động vốn đầu tư; căn cứ xác định định mức kinh tế kỹ thuật; lựa chọn công nghệ và khả năng tự chủ trong chế tạo thiết bị, mô hình quản lý điều hành hệ thống, đào tạo nguồn nhân lực...
Ngoài những cơ chế, chính sách đặc thù đã có, hai thành phố cần đề xuất cụ thể những nhóm cơ chế, chính sách chung, cần thiết cho cả hai địa phương để phát triển đường sắt đô thị; cơ chế huy động, phân bổ nguồn vốn đầu tư công trung hạn từ ngân sách Trung ương, địa phương và các nguồn vốn khác; mức độ an toàn khi huy động vốn vay đối với ổn định kinh tế vĩ mô…