Ngày 18/4 hằng năm là Ngày Người khuyết tật Việt Nam, và chủ đề năm nay được lựa chọn là "Công nghệ số và khả năng tiếp cận cho người khuyết tật”.
Trong khuôn khổ lễ kỷ niệm, Hội Người khuyết tật TP. Hà Nội (DP Hanoi) đã tổ chức chương trình “Phong trào Người khuyết tật Việt Nam: Khẳng định – Kế thừa – Vươn xa”.
Tại tọa đàm chuyên đề “Công nghệ số và khả năng tiếp cận có tính đến Người khuyết tật”, bà Trịnh Thị Thu Thủy, Trưởng Ban Giáo dục, Đào tạo và Chính sách Pháp luật của Hội, chia sẻ rằng tỷ lệ người khuyết tật sử dụng công nghệ thông tin và internet đang gia tăng đáng kể. Điều này thể hiện rõ nỗ lực của Việt Nam trong việc thúc đẩy chuyển đổi số toàn diện và cải thiện khả năng tiếp cận công nghệ cho mọi tầng lớp, đặc biệt là người khuyết tật, thông qua các chính sách hỗ trợ thiết thực và hiệu quả.
HÀNG LOẠT RÀO CẢN KHI NGƯỜI KHUYẾT TẬT TIẾP CẬN CÔNG NGHỆ SỐ
Mặc dù có nhiều tiến bộ, người khuyết tật vẫn đối mặt với hàng loạt rào cản khi tiếp cận công nghệ số. Thứ nhất, các nhà cung cấp dịch vụ công nghệ chưa thực sự chú trọng đến đối tượng này. Nhiều ứng dụng ngân hàng hoặc dịch vụ công còn yêu cầu xác thực phức tạp, gây khó khăn cho người khuyết tật về vận động hoặc thị giác.
“Dịch vụ công trực tuyến là một trở ngại lớn, nhiều cổng thông tin yêu cầu thao tác phức tạp, không thân thiện với người khuyết tật, đặc biệt là những người gặp hạn chế về vận động tay hoặc thị lực”, bà Thủy cho biết. “Ví dụ, việc nhập mã xác thực hoặc điều hướng qua các bước đăng ký thường đòi hỏi sự hỗ trợ từ người khác, làm giảm tính độc lập của người khuyết tật. Ngoài ra, các website và ứng dụng thường thiếu phụ đề, ký hiệu hoặc văn bản thay thế cho video, gây khó khăn cho người khiếm thính hoặc khiếm thị”.
Bên cạnh đó, hạ tầng internet tại một số khu vực, đặc biệt là nông thôn, vẫn chưa đáp ứng được nhu cầu gọi video hoặc sử dụng phần mềm hỗ trợ chuyên biệt. Thứ ba, chi phí thiết bị hỗ trợ như máy tính hoặc phần mềm đọc màn hình còn cao, vượt quá khả năng tài chính của nhiều người khuyết tật.
Theo bà Đinh Việt Anh, Phó Chủ tịch Hội Người mù Việt Nam, hiện nay Hội Người Mù Việt Nam có hơn 72.000 hội viên. Công nghệ số đã mang lại nhiều lợi ích to lớn, mở ra cơ hội để người khuyết tật nâng cao kỹ năng và hòa nhập với xã hội. Tuy nhiên, việc tiếp cận công nghệ số của người khuyết tật vẫn đối mặt với nhiều thách thức. Trong số hơn 72.000 hội viên, chỉ khoảng 20.000 người thường xuyên sử dụng máy tính hoặc điện thoại thông minh. Con số này cho thấy tỷ lệ tiếp cận công nghệ số của người khiếm thị còn rất thấp.
Ngoài ra, các nền tảng số hiện nay chưa đáp ứng đầy đủ tiêu chuẩn tiếp cận cho người khuyết tật, chẳng hạn như thiếu phụ đề, ký hiệu hoặc thiết kế không tương thích với phần mềm hỗ trợ. Những rào cản này khiến người khiếm thị gặp nhiều khó khăn trong việc tham gia vào các hoạt động số, từ học tập, làm việc đến giao tiếp xã hội.
Người khuyết tật không phải là một nhóm đồng nhất; mỗi dạng khuyết tật (về thị giác, thính giác, vận động, hoặc trí tuệ) đòi hỏi các giải pháp công nghệ khác nhau. Do đó, việc thiết kế các sản phẩm công nghệ số cần được cá nhân hóa và đa dạng hóa để đáp ứng nhu cầu của từng nhóm đối tượng.
Hiện nay, nhiều người khiếm thị thiếu kiến thức và kỹ năng cần thiết để sử dụng các thiết bị như máy tính hoặc điện thoại thông minh, do chưa được tham gia các khóa đào tạo về phần mềm hỗ trợ, chẳng hạn như phần mềm đọc màn hình. Một khó khăn nữa là các thiết bị hỗ trợ chuyên dụng, như máy in chữ nổi hoặc màn hình chữ nổi, thường phải nhập khẩu với chi phí cao, đồng thời việc sửa chữa và bảo trì cũng gặp nhiều khó khăn do phải thực hiện ở nước ngoài.
“Những hạn chế về trang thiết bị và kinh phí không chỉ là vấn đề của từng cá nhân mà còn ảnh hưởng đến các cấp hội, khiến việc tổ chức các khóa đào tạo về công nghệ thông tin và chuyển đổi số bị hạn chế”, bà Đinh Việt Anh nói.
Ông Nguyễn Anh Dũng - Chủ tịch Doanh nghiệp xã hội Handy Việt Nam; Trưởng ban đào tạo hiệp hội internet Việt Nam cũng đã chia sẻ góc nhìn thực tiễn về các thách thức trong việc hỗ trợ người khuyết tật tiếp cận công nghệ số. Theo ông, một trong những vấn đề lớn nhất là tính phù hợp của các sản phẩm công nghệ.
Người khuyết tật không phải là một nhóm đồng nhất; mỗi dạng khuyết tật (về thị giác, thính giác, vận động, hoặc trí tuệ) đòi hỏi các giải pháp công nghệ khác nhau. Ví dụ, người khuyết tật vận động có thể sử dụng tốt các ứng dụng điều khiển bằng giọng nói, nhưng những ứng dụng này lại không hiệu quả với người khiếm thị hoặc khiếm thính. Do đó, việc thiết kế các sản phẩm công nghệ số cần được cá nhân hóa và đa dạng hóa để đáp ứng nhu cầu của từng nhóm đối tượng.

Ông Dũng cũng nhấn mạnh về vấn đề chi phí. Các thiết bị và phần mềm hỗ trợ dành cho người khuyết tật, như màn hình chữ nổi hoặc phần mềm đọc màn hình, thường có giá thành cao, vượt quá khả năng tài chính của nhiều người. Điều này làm hạn chế cơ hội tiếp cận công nghệ số, ngay cả với những người có đam mê và mong muốn học hỏi.
NGƯỜI KHUYẾT TẬT CẦN ĐƯỢC NHÌN NHẬN LÀ CHỦ THỂ TÍCH CỰC TRONG TIẾN TRÌNH CHUYỂN ĐỔI SỐ
Để giải quyết vấn đề này, ông đề xuất cần có các chương trình hỗ trợ tài chính hoặc trợ giá thiết bị, đồng thời phát triển các công cụ số chuyên biệt, phù hợp với từng dạng khuyết tật. Ông Nguyễn Anh Dũng khẳng định rằng việc đầu tư vào các giải pháp công nghệ phù hợp sẽ giúp người khuyết tật hòa nhập tốt hơn, từ đó nâng cao chất lượng cuộc sống và khả năng tham gia vào nền kinh tế số.
Theo bà Trịnh Thị Thu Thủy, 100% người khuyết tật khẳng định công nghệ số giúp họ sống độc lập hơn, học tập hiệu quả hơn và tham gia tốt hơn vào các hoạt động xã hội. Công nghệ số không chỉ là công cụ mà còn là “đôi mắt, đôi tay và đôi tai” của người khuyết tật, giúp họ hòa nhập tốt hơn với xã hội. Các cộng đồng hỗ trợ, như Hội Người Khuyết tật, đóng vai trò quan trọng trong việc kết nối và nâng cao kỹ năng số.
Để thúc đẩy môi trường công nghệ số tiếp cận cho mọi người, đặc biệt là người khuyết tật, một số giải pháp đề xuất đã được đưa ra như (1) Nâng cao nhận thức và kỹ năng số thông qua đào tạo và tiếp cận công cụ trợ năng; (2) Tham gia vào quá trình thiết kế, thử nghiệm sản phẩm công nghệ và góp ý chính sách; (3) Vận động xây dựng chính sách số bao trùm, đảm bảo tiêu chuẩn tiếp cận; (4) Xây dựng cộng đồng hỗ trợ, chia sẻ kinh nghiệm và khuyến khích ứng dụng công nghệ trong học tập, làm việc, khởi nghiệp.
Trước đó, kỷ niệm Ngày Người khuyết tật Việt Nam 18/4/2025, UNDP, Hội Người mù Việt Nam và Đại sứ quán Na Uy cũng đã đồng tổ chức buổi tham vấn đa bên, tập trung thảo luận dự thảo đầu tiên của báo cáo “Đánh giá mức độ tiếp cận số của 20 cổng thông tin điện tử của Chính phủ và Quốc hội”.
Báo cáo đánh giá mức độ tiếp cận của các cổng thông tin quan trọng đối với người khuyết tật, đặc biệt là người khiếm thị, người có hạn chế về vận động hoặc nhận thức, dựa trên các tiêu chuẩn trong nước và quốc tế. Ông Patrick Haverman, Phó Trưởng Đại diện thường trú UNDP Việt Nam, cho biết nghiên cứu được thực hiện đúng lúc Chính phủ đang tái cơ cấu và nâng cấp hệ thống số.
“Người khuyết tật không chỉ là đối tượng thụ hưởng mà cần được nhìn nhận là chủ thể tích cực trong tiến trình chuyển đổi số. Việc đảm bảo quyền tiếp cận thông tin là thước đo của sự nhân văn và hiệu quả của mọi chính sách số,” ông Cù Kim Long, Phó Giám đốc Trung tâm CNTT – Bộ Khoa học và Công nghệ nhấn mạnh.