Sở Tài nguyên và Môi trường Hà Nội cho biết, thực hiện văn bản của Cục Kiểm tra văn bản quy phạm pháp luật (Bộ Tư pháp), văn bản của Văn phòng UBND TP. Hà Nội và văn bản của Sở Tư pháp Hà Nội, Sở bãi bỏ Công văn số 1685 được ban hành ngày 22/3/2022.
Để bảo đảm hiệu quả trong công tác quản lý đất đai trên địa bàn đúng quy định pháp luật, Sở đề nghị các địa phương, các cơ quan liên quan xem xét, giải quyết thủ tục hành chính liên quan đến việc chia tách thửa, hợp thửa đất cho người sử dụng đất theo quy định hiện hành. Cụ thể, xem xét, giải quyết việc chia tách thửa đất, hợp thửa đất theo Nghị định số 43/2014/NĐ-CP, Nghị định số 01/2017/NĐ-CP và Nghị định số 148/2020/NĐ-CP của Chính phủ; Thông tư số 09/2021/TT-BTNMT của Bộ TN-MT và Quyết định số 20/2017/QĐ-UBND của UBND TP.Hà Nội.
Được biết, Sở Tài nguyên và Môi trường đã ban hành Công văn 1685 về đẩy mạnh công tác quản lý Nhà nước trong thực hiện thủ tục tách thửa đất, hợp thửa đất. Trong đó, đề nghị UBND các quận, huyện, thị xã tạm dừng việc tiếp nhận, giải quyết thủ tục hành chính liên quan đến việc chia tách thửa đất đối với thửa đất nông nghiệp; thửa đất có đất ở và đất nông nghiệp trong cùng thửa đất; thửa đất phi nông nghiệp không phải là đất ở.
Tuy nhiên sau đấy, Cục Kiểm tra văn bản quy phạm pháp luật (Bộ Tư pháp) cũng ký văn bản gửi Chủ tịch UBND TP.Hà Nội đề nghị tự kiểm tra, xử lý Công văn số 1685/STNMT-ĐKTKĐĐ.
Cục Kiểm tra văn bản quy phạm pháp luật khẳng định, việc tách thửa là quyền của người sử dụng đất khi áp dụng đầy đủ các điều kiện và được thực hiện theo trình tự, thủ tục do pháp luật quy định. Việc yêu cầu tạm dừng tiếp nhận, giải quyết thủ tục hành chính liên quan đến việc chia tách thửa đất, đề cập tại Công văn số 1685 không đảm bảo cơ sở pháp lý về nội dung, và không thuộc thẩm quyền của Sở Tài nguyên và Môi trường Hà Nội. Quy định như vậy có thể ảnh hưởng tới quyền, lợi ích hợp pháp của người sử dụng đất.
Theo Cục Kiểm tra văn bản QPPL, Văn bản số 1685 là văn bản hành chính có chứa quy phạm pháp luật, nên việc ban hành văn bản này là hành vi bị nghiêm cấm theo khoản 2 điều 14 Luật Ban hành văn bản quy phạm pháp luật.