Ngày 23/4/2023, Ngân hàng Nhà nước ban hành Thông tư 02/2023/TT-NHNN cho phép các ngân hàng thương mại: (i) tái cấu trúc dư nợ (tiêu dùng và sản xuất) phát sinh từ 24/04/2023 tới 30/06/2024 mà không thay đổi nhóm nợ; (ii) tái cấu trúc thời hạn trả nợ lên đến 12 tháng; (iii) cho phép ngân hàng thương mại trích lập dần trong năm 2023 và 2024.
Những thay đổi trong việc ghi nhận và trích lập dự phòng giúp các ngân hàng thương mại có thêm thời gian xử lý nợ xấu, đặc biệt trong bối cảnh suy thoái kinh tế toàn cầu.
Tuy nhiên, giới phân tích đánh giá áp lực nợ xấu sẽ còn dâng cao trong thời gian còn lại của năm 2023 do: (i) tỷ lệ nợ xấu mở rộng chưa đạt đỉnh; (ii) lượng lớn trái phiếu doanh nghiệp sắp đáo hạn, đặc biệt là trong quý 3 năm 2023, quý 2 và 4 năm 2024; (iii) sự bất định của các điều kiện vĩ mô.
Theo thống kê của Công ty chứng khoán Mirae Asset (MASVN), tỷ lệ nợ xấu (NPL) và nợ xấu mở rộng (bao gồm nợ nhóm 2) của hầu hết các ngân hàng niêm yết đều tăng mạnh trong quý 1/2023. Tỷ lệ nợ xấu trung bình của các ngân hàng niêm yết tăng lên mức 2,9% (+0,4% so với cuối năm 2022) và tiệm cận mức trần nợ xấu là 3% (áp dụng cho ngân hàng mẹ).
Tỷ lệ nợ xấu tăng mạnh chủ yếu đến từ việc lãi suất tăng cao đi kèm với tình hình kinh doanh kém khả quan. Tổng dư nợ cho vay nhóm 3 trở xuống của 27 ngân hàng niêm yết trên sàn chứng khoán đạt 168,3 nghìn tỷ, tăng 21,1% so với cuối năm 2022 và tăng 51,4% so với cùng kỳ. Tỷ lệ nợ dưới chuẩn (bao gồm nợ nhóm 2) trung bình tăng từ 1,4% trong quý 1/2022 lên mức 5,8% trong quý 1/2023.
Theo các chuyên gia, tỷ lệ nợ xấu mở rộng cho thấy nợ xấu chưa đạt đỉnh. Ngoài ra, kinh tế vĩ mô nói chung sẽ phục hồi dần nhưng chưa thực sự khả quan. Tuy nhiên, với các biện pháp điều hành linh hoạt từ phía Ngân hàng Nhà nước trong việc cắt giảm lãi suất cũng như những điều chỉnh tạm thời đối với quy định ghi nhận nợ xấu sẽ phần nào giảm áp lực phát sinh nợ xấu mới. Do đó, MASVN kỳ vọng nợ xấu sẽ đạt đỉnh vào cuối năm 2023 hay đầu 2024.
Ngoài ra, một lượng đáng kể trái phiếu doanh nghiệp sắp đến kỳ thanh toán gốc và lãi cũng được cho là tác động tiêu cực đến chất lượng tài sản của các ngân hàng. Cụ thể, theo Hiệp hội Thị trường trái phiếu Việt Nam, khoảng 200 nghìn tỷ trái phiếu doanh nghiệp sẽ đến hạn thanh toán tiền gốc trong 7 tháng cuối năm 2023, trong khi trái phiếu đáo hạn vào năm 2024 ước tính khoảng 360 nghìn tỷ đồng (+29,4% so với cùng kỳ).
Nhìn chung, tổng lượng trái phiếu này không quá lớn so với tổng dư nợ của hệ thống tín dụng trong nước (xấp xỉ 5% tổng tín dụng của ngành ngân hàng), nhưng cũng không thể xem nhẹ tác động dây chuyền và các hệ quả liên quan như gia tăng nợ xấu và gánh nặng chi phí trích lập dự phòng.
Bên cạnh chất lượng tài sản đi xuống, có 2 nhân tố khác tác động khiến tỷ lệ thu nhập lãi thuần (NIM) của các ngân hàng dự kiến kéo dài chuỗi giảm vào năm 2023 là: (i) thiếu sự hỗ trợ từ huy động nguồn vốn giá rẻ (tỷ lệ tiền gửi không kỳ hạn chưa thể phục hồi nhanh) và (ii) tỷ trọng ngân hàng bán lẻ có sự chững lại.
Tuy nhiên, bức tranh triển vọng ngành ngân hàng không phải toàn màu xám. Việc cắt giảm lãi suất và ổn định tỷ giá hối đoái được kỳ vọng tạo ra lợi nhuận trong các hoạt động mua bán ngoại hối và các loại trái phiếu nói chung của các ngân hàng.
Một loạt giải pháp chính sách được Chính phủ đưa ra nhằm gỡ khó cho thị trường trái phiếu doanh nghiệp cũng được kỳ vọng có thể tạo ra nguồn thu nhập đáng kể cho các nhà tạo lập thị trường lớn như TCB, VPB, MBB, TPB..
Quan trọng nhất, thị trường kỳ vọng một loạt chính sách được đảo chiều trong quý 1 và quý 2 của năm 2023 sẽ được nền kinh tế hấp thụ trong nửa cuối năm, qua đó đẩy nhanh tốc độ phục hồi của nền kinh tế.