January 12, 2012 | 12:17 GMT+7

“Không có lợi ích nhóm trong hệ thống ngân hàng”

P.V

Những nội dung đáng chú ý tại cuộc đối thoại trực tuyến với nhân dân của Thống đốc Ngân hàng Nhà nước Nguyễn Văn Bình

Thống đốc: "Về câu hỏi có lợi ích nhóm trong hệ thống ngân hàng hay không, nếu trên góc độ vĩ mô toàn hệ thống, tôi xin nói là không" - Ảnh: Chinhphu.vn.
Thống đốc: "Về câu hỏi có lợi ích nhóm trong hệ thống ngân hàng hay không, nếu trên góc độ vĩ mô toàn hệ thống, tôi xin nói là không" - Ảnh: Chinhphu.vn.
Đó là khẳng định của Thống đốc Ngân hàng Nhà nước Nguyễn Văn Bình tại cuộc đối thoại trực tuyến với nhân dân, do Cổng thông tin điện tử Chính phủ tổ chức sáng nay (12/1).

Cuộc đối thoại tập trung vào một số vấn đề như sự chỉ đạo, điều hành chính sách tiền tệ, lãi suất, tính thanh khoản của hệ thống ngân hàng, tái cấu trúc hệ thống ngân hàng, thị trường ngoại hối và vàng...

Đây là hoạt động nhằm thực hiện ý kiến chỉ đạo của Thủ tướng Chính phủ Nguyễn Tấn Dũng yêu cầu lãnh đạo các bộ, ngành, địa phương tăng cường giao lưu trực tuyến, đối thoại trực tuyến trên Cổng thông tin điện tử Chính phủ, để "góp phần định hướng dư luận, tạo đồng thuận trong việc thực hiện các chủ trương, chính sách của Đảng, pháp luật của Nhà nước".

VnEconomy xin trích đăng một số nội dung đáng chú ý từ cuộc đối thoại này. Các tựa đề trong bài do Tòa soạn đặt.

Lạm phát có nguyên nhân do chính sách

Phát biểu tại cuộc họp triển khai nhiệm vụ ngành ngân hàng năm 2012, Thủ tướng Nguyễn Tấn Dũng đã nhấn mạnh: “Trong điều hành chính sách tiền tệ còn nhiều điều đáng rút kinh nghiệm. Cần phải nghiêm túc xem lại. Có những khó khăn do chính chúng ta gây ra”. Vậy những khó khăn do chúng ta gây ra là gì?

Trước hết, phải thấy rằng khi ban hành chính sách gì thì phải phù hợp với thực tiễn cuộc sống, để giải quyết các vấn đề cụ thể trước mắt hoặc dài hạn. Muốn vậy, Ngân hàng Nhà nước phải có các công cụ, biện pháp thích hợp mà trong hệ thống ngân hàng, chúng tôi thường sử dụng là điều tiết lượng tiền trong lưu thông. Nếu cung tiền ít thì thiếu thanh khoản, nếu nhiều thì dẫn tới lạm phát.

Điều đó đòi hỏi Ngân hàng Nhà nước điều hành chính sách tiền tệ chặt chẽ, và nhiều khi, sự điều hành đó vừa là khoa học, vừa là nghệ thuật. Chúng ta thấy rằng, để nấu món ăn ngon thì các giáo trình giống nhau, gia vị, nguyên liệu giống nhau nhưng mỗi người đầu bếp có thể nấu ra các sản phẩm khác nhau. Đối với chính sách tiền tệ, những lý thuyết cơ bản đã được ghi thành sách giáo khoa, với các công cụ nhất định. Do vậy, sử dụng đồng bộ, hài hòa các công cụ cho phù hợp với tình hình, nhiệm vụ đặt ra là khoa học và nghệ thuật.

Trong thời gian qua, đôi khi chúng tôi chưa làm tốt công tác đó. Cho nên, chúng ta thấy rằng có một số bất ổn về kinh tế vĩ mô, đặc biệt là lạm phát, mặc dù lạm phát do nhiều nguyên nhân nhưng cũng phải nói rằng, có nguyên nhân do chính sách tiền tệ.

Đó là những yếu kém mà chúng tôi đang cố gắng hoàn thiện, để làm sao nâng cao năng lực điều hành chính sách tiền tệ, không những theo thông lệ quốc tế mà còn thể hiện trình độ, hay vừa nói là nghệ thuật, cho phù hợp với nền kinh tế Việt Nam.

Vậy những thành công nổi bật nhất trong công tác điều hành của Ngân hàng Nhà nước năm 2001 là gì, thưa Thống đốc?

Những thành công trong kinh tế - xã hội năm 2011 thể hiện vai trò, quyết tâm của cả hệ thống chính trị, quyết tâm từ nhà lãnh đạo cao nhất cho tới mỗi người dân, sự chia sẻ, đồng thuận của toàn xã hội. Trong đó, có sự đóng góp tích cực của hệ thống ngân hàng.

Một trong những thành công lớn nhất năm 2011 là kiềm chế tăng trưởng tín dụng ở mức thấp trong khi vẫn đảm bảo tốc độ tăng trưởng kinh tế ở mức hợp lý. Tăng trưởng tín dụng năm qua là 13,1%, mức thấp nhất trong 20 năm trở lại đây, trong khi vẫn đảm bảo tăng trưởng kinh tế 6%, đây là mức được đánh giá là phù hợp trong bối cảnh kinh tế thế giới và tình hình trong nước gặp nhiều khó khăn.

Trong môi trường khó khăn như vậy, cũng phải khẳng định rằng chúng ta giữ ổn định được tỷ giá và thị trường ngoại hối. Nếu tính từ tháng 2/2011 đến 31/12/2011 thì tỷ giá của Việt Nam biến động không quá 1%. Kết quả đó là do sự điều hành chung của chính sách tiền tệ, sự hấp dẫn của đồng Việt Nam so với ngoại tệ.

Hiện tượng đầu cơ vào ngoại tệ đã giảm đi rất nhiều và người dân có xu hướng bán ngoại tệ cho hệ thống ngân hàng, làm cho thanh khoản ngoại tệ trong hệ thống ngân hàng được cải thiện, cũng như Ngân hàng Nhà nước có điều kiện mua được ngoại tệ, tăng dự trữ quốc gia.

Thống đốc có cho rằng chúng ta có thể chống lạm phát hiệu quả và an toàn hơn bằng giải pháp như sau:

a) Giảm có lộ trình hợp lý việc tăng trưởng tín dụng hàng năm

b) Áp dụng các giải pháp hữu hiệu trong việc thu hồi đúng thời hạn các khoản đã cho vay

c) Chuẩn hóa và khẩn trương nâng cao chất lượng, tính chuyên nghiệp công tác thẩm định các dự án vay vốn đầu tư, kiên quyết tạm thời không cho vay đối với tất cả các dự án không hiệu quả, hoặc thời gian hoàn vốn quá dài.

Xin cám ơn độc giả vì những gợi ý rất chính xác. Tất nhiên, những biện pháp chống lạm phát không chỉ dừng lại ở đó. Ví dụ, lạm phát năm 2011 là 18% thì phần do chính sách tiền tệ hay tài khóa dưới góc độ tiền tệ chiếm khoảng 12%. Như vậy, còn 6% do các yếu tố khác. Có tác động của giá quốc tế tăng cao ảnh hưởng đến mặt bằng giá cả trong nước, bởi hiện nền kinh tế có độ mở lớn, xuất nhập khẩu lên tới 150% GDP. Có nguyên nhân do điều hành giá trong nước chưa tốt.

Theo một nghiên cứu mà chúng tôi vừa tiến hành, trong 5 năm trở lại đây, lạm phát tại Việt Nam bám rất sát biến động giá lương thực thực phẩm. Trong khi chúng ta xuất khẩu gạo thứ nhì thế giới, xuất khẩu thủy hải sản hàng đầu thế giới, việc sản xuất thực phẩm trong nước cũng đã có lúc tính đến xuất khẩu, tức là lương thực, thực phẩm không hề thiếu.

Như vậy là điều hành giá còn nhiều điểm yếu. Nếu khắc phục được những điểm yếu này có thể lạm phát sẽ không ở mức 18 mà chỉ khoảng 12 hoặc 15%.

Do đó, những yếu tố bạn nêu rất quan trọng nhưng còn nhiều giải pháp khác nữa. Như tôi nói, cần tiến hành đồng bộ mới nhiều giải pháp mới ổn định được kinh tế vĩ mô.

Chưa có điều kiện giảm ngay lãi suất

Thủ tướng đã đề nghị ngành ngân hàng tập trung giảm lãi suất cho vay và cho rằng hoàn toàn có thể đưa lãi suất về mức hợp lý với lạm phát bằng cơ chế thị trường chứ không phải bằng mệnh lệnh hành chính? Xin Thống đốc cho biết những biện pháp và kế hoạch thực hiện mục tiêu này?

Nhu cầu giảm lãi suất trong hệ thống ngân hàng là nhu cầu thiết thực, chính đáng đối với người sản xuất. Đó cũng là mong mỏi của Chính phủ nói chung, lãnh đạo Ngân hàng Nhà nước nói riêng. Nhưng có hạ được lãi suất hay không còn phụ thuộc rất nhiều điều kiện.

Thứ nhất, lạm phát năm qua mặc dù kiềm chế được, từ tháng 8 trở lại đây, chỉ số CPI qua các tháng, có tốc độ tăng giảm so với các tháng trước, nhưng vẫn là tăng, ít nhất là 0,3%, nhiều thì xấp xỉ 1%. Lạm phát có tăng nhưng tốc độ tăng chậm đi vào những tháng cuối năm.

Cả năm vừa qua, lạm phát vẫn ở mức 18,5%, đối với chúng ta là cố gắng lớn, nhưng so với các nước trong khu vực và trên thế giới cũng như so với thực tiễn điều hành kinh tế vĩ mô của nhiều nước thì đây là mức lạm phát quá cao.

Với mức lạm phát cao như vậy mà lại đề nghị giảm ngay mức lãi suất thì theo tôi là chưa phù hợp. Tất nhiên, khi hoạch định chính sách lãi suất là chúng ta hoạch định cho 12 tháng tiếp theo. Có nghĩa là, kỳ vọng về lạm phát nếu chúng ta làm tốt thì cũng làm giảm được kỳ vọng lạm phát.

Tốc độ tăng lạm phát trong những tháng cuối năm giảm xuống cũng tạo ra kỳ vọng, tiền đề để hệ thống ngân hàng có thể giảm được lãi suất. Tuy nhiên đây mới là điều kiện cần, chưa phải điều kiện đủ. Trong khi đó, chúng ta cũng thấy rằng vấn đề thanh khoản của hệ thống ngân hàng hiện nay đang là vấn đề hết sức quan trọng và nhức nhối.

Như các bạn thấy, trong nhiều năm qua, tăng trưởng tín dụng của hệ thống ngân hàng rất lớn, trong 10 năm vừa qua tốc độ tăng trưởng trung bình 29,4%/năm. Trong 5 năm vừa qua là 33%/năm. Như vậy, tăng trưởng tín dụng rất là mạnh, trong khi đó chúng ta phần lớn nguồn vốn huy động được là ngắn hạn.

So với quy định của Ngân hàng Nhà nước, cơ cấu sử dụng nguồn vốn của hệ thống các ngân hàng chưa chuẩn. Phần lớn nguồn vốn huy động được là nguồn vốn ngắn hạn trong khi đó các tổ chức tín dụng lại sử dụng một tỷ lệ rất lớn cho vay trung và dài hạn.

Theo quy định của Ngân hàng Nhà nước, tỷ lệ này chỉ ở mức 30%, nhưng trên thực tế các tổ chức tín dụng đã vượt con số này từ lâu. Có tổ chức lên tới 60-70%, có tổ chức đến cả 100%. Điều đó thể hiện, vốn thì ngắn hạn, cho vay trung và dài hạn, đến khi thắt chặt lại chính sách tiền tệ để chống lạm phát như năm vừa qua, lập tức các tổ chức này khó khăn về thanh khoản.

Do vậy, đến nay, cuối năm vừa rồi lạm phát bắt đầu có xu hướng giảm, nhưng nhu cầu về vốn của hệ thống ngân hàng cho bản thân hệ thống ngân hàng để đảm bảo thanh khoản cũng còn rất lớn. Đối với nền kinh tế, chúng ta đã có mức tăng trưởng, tỷ lệ tăng trưởng hết sức chặt chẽ rồi.

Riêng vốn cho hệ thống ngân hàng đảm bảo thanh khoản của mình rất lớn. Trong bối cảnh đó, chưa có điều kiện giảm ngay lãi suất trong giai đoạn hiện nay.

Lạm phát giảm chỉ là điều kiện cần, chưa phải điều kiện đủ để giảm lãi suất trong hệ thống ngân hàng. Lãnh đạo Ngân hàng Nhà nước cùng hệ thống các ngân hàng thương mại đang tìm nhiều giải pháp để từng bước hạ lãi suất trong hệ thống ngân hàng ở mức độ hợp lý vừa để đáp ứng nhu cầu chính đáng của các doanh nghiệp, của nền kinh tế, nhưng vẫn đảm bảo mức thanh khoản và tính ổn định của hệ thống ngân hàng.

Phát hiện vi phạm lãi suất, báo ngay cho chúng tôi

Tôi có hai câu hỏi xin gửi đến Thống đốc.

Ngân hàng SCB sau hợp nhất vẫn huy động vàng với lãi suất cao, vẫn thỏa thuận lãi suất với khách hàng, chứng tỏ vấn đề thanh khoản vẫn chưa giải quyết được. Vậy vai trò của BIDV ở đâu? Ngân hàng Nhà nước ở đâu. Vì sao Ngân hàng Nhà nước không cử đại diện tham gia vào hội đồng quản trị để chấn chỉnh hoạt động của ngân hàng?

Thị trường liên ngân hàng hiện gần như đóng băng, các ngân hàng không cách nào vay được 5 ngân hàng thương mại nhà nước, nếu vay được cũng phải thế chấp, chuyện cũng chỉ năm nay mới có, Ngân hàng Nhà nước có biện pháp gì để chấn chỉnh hoạt động của thị trường này?

Rất cám ơn độc giả đã có câu hỏi cụ thể. Tôi xin khẳng định mọi hành vi vi phạm các quy định của Ngân hàng Nhà nước, trong đó có quy định về trần lãi suất đều vi phạm pháp luật và là biện pháp cạnh tranh không lành mạnh. Nếu bạn có bằng chứng hết sức cụ thể về việc vi phạm, rất mong bạn gửi các bằng chứng này tới Ngân hàng Nhà nước để xử lý nghiêm.

Thời gian qua, chúng tôi cùng lực lượng công an đã đẩy mạnh kiểm tra, giám sát, xử lý nghiêm các tổ chức tín dụng vi phạm. Rất mong người dân, các khán thính giả, các độc giả nếu phát hiện được các hành vi vi phạm thì báo ngay cho chúng tôi để xử lý.

Tôi cũng xin nói thêm là nếu tổ chức tín dụng vi phạm, người dân mà tham gia, thì đó cũng là những tòng phạm, và theo pháp luật thì phải xử lý cả tòng phạm. Do đó, chúng tôi đề nghị người dân không tiếp tay với những vi phạm này.

Tôi cũng xin nói rằng nếu khó vay vốn trên hệ thống liên ngân hàng là không chính xác, chỉ là tin đồn. Hiện, 90% hệ thống liên ngân hàng cho  vay bình thường, chỉ khoảng 10% các tổ chức tín dụng khó khăn hoặc có hiện tượng hoạt động không lành mạnh thì khó vay. Nếu một người bạn có khả năng toán, đạo đức tốt thì chúng ta dễ dàng cho vay hơn với một người bạn nhất định không thể trả nợ và vay chỉ để tiêu xài hoang phí.

Do vậy, tôi xin khẳng định hiện có khoảng 10% các tổ chức tín dụng - 10% tính theo thị phần ngân hàng - đang có những khó khăn về tình hình tài chính, khó vay trên thị trường liên ngân hàng. Do đó, khi cho vay các ngân hàng khác đòi hỏi phải có thế chấp. Tình hình này đòi hỏi Ngân hàng Nhà nước phải xử lý các tổ chức không lành mạnh đó để trả lại sự lành mạnh cho thị trường.

Vấn đề thứ hai, SCB sau hợp nhất đã chuyển biến tích cực. Nếu như trước hợp nhất, tại 3 tổ chức, người dân đều đến rút tiền rất nhiều, luồng tiền vào nhỏ hơn luồng tiền ra. Để đảm bảo khả năng thanh khoản và chi trả cho người dân, cả 3 đều phải vay tái cấp vốn của Ngân hàng Nhà nước.

Đến nay, dòng tiền đã cơ bản cân bằng, luồng tiền vào đã có lúc cao hơn luồng tiền ra. Như vậy, đã có điều kiện để SCB ổn định trở lại. Hiện SCB đã có nhiều giải pháp như phối hợp với các nhà đầu tư trong nước và quốc tế để đầu tư vào các dự án họ đã cho vay trước đây để tạo thanh khoản cho hệ thống.

Tôi cho rằng với sự tích cực của bản thân SCB, sự hỗ trợ của BIDV và các tổ chức tín dụng khác, SCB sẽ có chuyển biến tích cực hơn nữa trong thời gian tới.

Ngân hàng Nhà nước đã có nhiều động thái mạnh tay để chấn chỉnh những hành vi như đua lãi suất, vi phạm các quy định về buôn bán ngoại tệ, vàng... nhưng nếu để ý kỹ thì sẽ thấy thực ra trước khi Ngân hàng Nhà nước ra tay, các hành vi này đã diễn ra trong thời gian dài. Trong năm 2012, ông sẽ làm thế nào để công tác thanh, kiểm tra của ngành có thể đi trước một bước, chủ động ngăn chặn những hành vi phạm pháp?

Chúng tôi cho rằng, tại phiên chất vấn tại Quốc hội, cũng như hội  nghị ngành ngân hàng ngày 7/9/2011, chúng tôi cũng thừa nhận các hành vi vi phạm trần lãi suất đã diễn ra hết sức phổ biến. Chúng tôi cũng thừa nhận sự yếu kém trong công tác thanh tra giám sát và xử lý của Ngân hàng Nhà nước.

Sau ngày 7/9/2011, Ngân hàng Nhà nước đã xử lý quyết liệt hơn với nhiều giải pháp khác nhau, cũng đã xử lý được một số trường hợp. Đến nay, chúng tôi cũng nhận thấy và theo nhiều thông tin phản ánh, việc vi phạm trần lãi suất lại bắt đầu rộ lên. Do vậy đòi hỏi công tác thanh tra giám sát, xử lý của Ngân hàng Nhà nước trong năm 2012 quyết liệt hơn nữa.

Chúng tôi đã xây dựng chương trình thanh tra của Ngân hàng Nhà nước trong đó, một trong những nội dung hết sức quan trọng ngoài việc đảm bảo an toàn hệ thống tổ chức tín dụng còn có nội dung rất quan trọng là chống cạnh tranh không lành mạnh trong hệ thống ngân hàng, đặc biệt là cạnh tranh bằng lãi suất.

Chúng tôi cũng hy vọng rằng, với những kết quả mà chúng tôi đã xử lý được từ tháng 9 trở lại đây cũng như những kinh nghiệm mà chúng tôi đã có cũng như sự phối hợp chặt chẽ của các cơ quan khác, đặc biệt là cơ quan công an, với sự đồng tình của người dân, doanh nghiệp, công tác đó của năm 2012 sẽ được làm kiên quyết và chặt chẽ và triệt để hơn.

Xin trở lại ý kiến lúc đầu Thống đốc đề cập, người dân có thể phát hiện vi phạm của ngân hàng và báo cho Ngân hàng Nhà nước?

Hoàn toàn có thể. Tôi đã nói từ đầu, đây là hành vi vi phạm pháp luật, do vậy bất cứ ai phát hiện hành vi vi phạm pháp luật thì báo cho các cơ quan chức năng. Chúng tôi hết sức quan tâm và đánh giá cao ý thức công dân của người đó.

Không khủng hoảng, không lợi ích nhóm, nợ xấu trong tầm kiểm soát

Tôi là một nhà kinh tế, tôi đã nhìn ra cuộc khủng hoảng ngân hàng này ở Việt Nam trước đây 3 năm bởi sự bất cập về cơ chế quản lý, buông lỏng, lập ngân hàng quá nhiều, cho vay bất động sản không kiểm soát. Tôi xin hỏi Thống đốc một số câu hỏi, có phải có nhóm lợi ích chi phối hoạt động, tỷ lệ nợ xấu có thực như công bố?

Thứ nhất, cám ơn bạn đã nhìn thấy khủng hoảng ngân hàng cách đây 3 năm, nếu có điều kiện, chúng tôi mong muốn được tiếp xúc với bạn, và cũng rất muốn bạn hợp tác dưới góc độ là chuyên gia, hay nếu bạn có nguyện vọng, chúng tôi mời bạn về làm ở Ngân hàng Nhà nước ở bộ phận phân tích cho những kế hoạch tương lai.

Với các câu hỏi bạn đặt ra, về khủng hoảng, tôi xin nói rằng, chúng ta không có khủng hoảng ngân hàng. Dưới góc độ phân tích, bạn thấy tình hình căng thẳng quá, còn với chúng tôi, những người điều hành trực tiếp hoạt động ngân hàng và chịu trách nhiệm trước nhân dân, trước Đảng và Nhà nước về hệ thống ngân hàng thì chúng tôi  khẳng định rằng chúng ta không có khủng hoảng ngân hàng.

Hiện nay chúng ta đặt vấn đề tái cấu trúc lại hệ thống ngân hàng như tôi đã nói nhiều lần, không phải do hệ thống ngân hàng của chúng ta yếu kém đến mức độ không tái cấu trúc nó thì nó đổ vỡ ngay lập tức. Trong cuộc sống, các bạn cũng thấy rằng, ngay cả chúng ta trong một lớp học, dù lớp đó rất tốt, xuất sắc, cũng có 1 tỷ lệ nhất định các học sinh học chưa khá. Điều đó hết sức dễ hiểu, trong hệ thống ngân hàng cũng vậy, với tỷ lệ khoảng 10% yếu kém.

Việc tái cấu trúc hệ thống ngân hàng hiện nay xuất phát từ nhu cầu của đất nước trong bối cảnh thay đổi lại mô hình phát triển kinh tế. Mỗi nền kinh tế có hệ thống huyết mạch của nó, cơ thể như thế này thì cần huyết mạch tương ứng. Chúng ta nếu muốn xây dựng cơ thể khác, thì nội dung cơ bản của cơ thể đó là trái tim và huyết mạch cũng phải có điều chỉnh khác đi.

Như vậy, nhu cầu tái cấu trúc hệ thống ngân hàng trước tiên xuất phát từ nhu cầu tái cấu trúc lại nền kinh tế theo hướng chuyển từ kinh tế phát triển theo chiều rộng sang kinh tế phát triển có chiều sâu, theo hướng từ số lượng sang chất lượng. Đấy là nhu cầu thứ nhất và cấp bách và cũng để đáp ứng nhu cầu đó, chúng ta cũng kèm theo là giải quyết những yếu kém đang tồn tại trong hệ thống ngân hàng.

Hệ thống ngân hàng của chúng ta về cơ bản vẫn đáp ứng được những yêu cầu của cuộc sống đặt ra và trên thực tế, bạn cũng thấy rằng, những năm vừa qua, ví dụ như năm 2008, lạm phát cao, rất nhiều khó khăn, hệ thống ngân hàng của chúng ta vẫn đứng vững. Sau đó, năm 2009, khi có khủng hoảng tài chính toàn cầu, ngân hàng thế giới, kinh tế thế giới chao đảo, hệ thống ngân hàng của chúng ta vẫn đứng vững. Do vậy, xin khẳng định, chúng ta không có khủng hoảng hệ thống ngân hàng.

Thứ hai, về câu hỏi có lợi ích nhóm trong hệ thống ngân hàng hay không, nếu trên góc độ vĩ mô toàn hệ thống, tôi xin nói là không, còn dưới góc độ một vài ngân hàng thì có. Bởi hiện nay, chúng ta có một số tổ chức tín dụng yếu, quy mô nhỏ, tình hình tài chính không lành mạnh. Các tổ chức đó phục vụ lợi ích một số cổ đông chiếm tỷ trọng chi phối đối với tổ chức đó. Lợi ích nhóm ở đây là lợi ích của các cổ đông lớn của ngân hàng đó mà đúng ra, ngân hàng phải phục vụ lợi ích đại chúng.

Trên góc độ vĩ mô toàn bộ hệ thống ngân hàng, không có chuyện vì lợi ích nhóm nào đó mà phải cho vay bất động sản...

Đối với một nền kinh tế của một nước đang phát triển như Việt Nam, thị trường bất động sản luôn đóng vai trò rất quan trọng. Nếu thị trường này được quản lý hợp lý thì sẽ là động lực cho phát triển kinh tế - xã hội. Nhưng ngược lại, nếu thiếu kiểm soát, để thị trường phát triển bất hợp lý, nó sẽ gây ra bất ổn cho nền kinh tế. Ở một số nước, để thị trường bất động sản tăng trưởng quá nóng, có hiện tượng "bong bóng", thì khi nó vỡ, gây ra hệ lụy rất lớn. Điều đó từng xảy ra ở Nhật Bản và một số nước khác. Trung Quốc cũng đau đầu về vấn đề này.

Để thị trường bất động sản lành mạnh, không nóng quá là bài toán đang đặt ra cho Chính phủ ta. Hệ thống ngân hàng cũng cần góp phần quan trọng lành mạnh hóa thị trường này. Trong năm qua, chúng ta có một số biện pháp hạn chế nhất định để "giảm nhiệt" sự tăng trưởng nóng, hay giá quá cao của thị trường bất động sản để đưa nó về mức độ hợp lý. Trước ý kiến cho rằng làm như vậy có nguy cơ khiến thị trường sụp đổ thì tôi khẳng định rằng không thể làm nó sụp đổ được. Chúng ta chỉ đưa thị trường về mức độ phát triển hợp lý hơn.

Thứ ba, bạn phản ánh nợ xấu thấp như vậy thì làm sao hệ thống ngân hàng mất thanh khoản. Tôi xin nói rằng, mất thanh khoản không phải chỉ do nợ xấu. Hệ thống ngân hàng hơi khác so với các doanh nghiệp. Nợ xấu có thể cao nhưng cuối năm ngân hàng phải trích lập dự phòng rủi ro để chi trả cho nợ xấu đó (nếu không thu hồi được). Tức là, ngân hàng phải dùng lợi nhuận của mình để bù đắp nợ xấu. Trong thực tiễn, đầu năm có thể nợ xấu cao nhưng cuối năm khi ngân hàng trích lập quỹ dự phòng rủi ro để bù đắp thì nợ xấu giảm đi. Đó mới là kết quả chung của hệ thống ngân hàng.

Tuy nhiên, cũng cần xét tới quy định, khái niệm thế nào là nợ xấu. Hiện nay, theo quy định của pháp luật Việt Nam, chúng ta có bước tiến lớn trong xếp loại nợ (theo 5 nhóm), khá phù hợp với thông lệ quốc tế. Tuy nhiên, khi xếp loại, do đánh giá chủ quan, có tổ chức, cá nhân xếp loại nợ của một ngân hàng nào đó vào nhóm 5 nhưng tổ chức, cá nhân khác cho rằng không đến mức độ như vậy. Do chuẩn mực kế toán của Việt Nam và quốc tế cũng chưa đồng nhất, khi đánh giá của kiểm toán trong nước so với quốc tế có độ vênh nhất định nên tạo ra dư luận có thể nợ xấu cao hơn.

Tôi xin nói rằng, nợ xấu của ngân hàng so với trước khi có tăng lên nhưng vẫn nằm trong tầm kiểm soát và ở mức an toàn.

Sau khi nghe trả lời của Thống đốc, tôi đã yên tâm hơn rất nhiều. Theo Thống đốc, trong năm 2012 sẽ có từ 5-8 ngân hàng tiếp tục sáp nhập, hợp nhất, thì người gửi tiền ở các ngân hàng này có thể yên tâm hay không?

Như đã trả lời, tôi xin khẳng định là bạn có thể hoàn toàn yên tâm, kể cả khi gửi tiền tại ngân hàng SCB vừa được hợp nhất.

Doanh nghiệp cũng phải nhìn nhận lại bản thân

Hiện 80% doanh nghiệp của Hội Doanh nghiệp trẻ hoạt động cầm chừng, không có lãi, nhiều doanh nghiệp giảm bớt hoạt động, đóng cửa một phần, ví dụ chúng tôi cũng phải đóng cửa nhà máy. Nguyên nhân chủ yếu là vì lãi vay quá lớn, khoảng 20%. Hiện, theo điều hành của Ngân hàng Nhà nước, các ngân hàng huy động 14% và cho vay 18% đến 22%.  Đến nay, theo công bố của các ngân hàng thì nhiều ngân hàng có mức lãi rất lớn. Điều này gây ra sự phân biệt giữa ngân hàng và các đơn vị sản xuất kinh doanh. Qua theo dõi, tôi được biết các ngân hàng của Trung Quốc cho vay các doanh nghiệp sản xuất kinh doanh thì lãi suất được khống chế rất nhiều năm, trong khoảng 5-5,5%, họ không quy định mức lãi huy động đầu vào mà để các ngân hàng quyết định, mức huy động vốn trong dân là từ 3-3,5%. Chúng tôi rất mong Thống đốc nghiên cứu và trả lời.

Trước đây, chúng ta tăng trưởng tín dụng ở mức 33,5%. Theo Nghị quyết 11, Chính phủ yêu cầu tỷ lệ nay dưới 20%. Nếu năm 2011, chúng ta thực hiện đúng 20%, tức giảm 13% so với trước đây, thì ít nhất khoảng 1/3 doanh nghiệp gặp khó khăn khi tiếp cận tín dụng ngân hàng.

Tuy nhiên, Nghị quyết 11 được ban hành nhằm thực hiện mục tiêu kiềm chế lạm phát. Hãy thử đặt ngược vấn đề: trong năm 2011, chúng ta đã tăng trưởng tín dụng 13% và lạm phát là 18,5%%, nếu tín dụng tăng trưởng 20% thì lạm phát phải 25, 27% và việc chống lạm phát năm 2012 và sắp tới còn khó khăn hơn nữa.

Do vậy, đây là chia sẻ chung của nền kinh tế để chúng ta thực hiện chính sách kinh tế vĩ mô.

Hiện nay, hệ thống ngân hàng của chúng ta phải có tăng trưởng tín dụng thì mới có lợi nhuận. Hiện phần cung ứng dịch vụ trong hệ thống các tổ chức tín dụng còn hết sức hạn chế, lợi nhuận chủ yếu dựa vào tăng trưởng tín dụng. Việc giảm tăng trưởng tín dụng là đã đánh vào lợi nhuận đó một cách hết sức mạnh mẽ, đó cũng là chia sẻ của các tổ chức tín dụng với chính sách kinh tế vĩ mô. Đồng thời, việc thắt chặt tín dụng cũng khiến các doanh nghiệp tiếp cận khó khăn với nguồn vốn ngân hàng và đó là chia sẻ của các doanh nghiệp với đất nước trong lúc kinh tế khó khăn này. Chúng ta phải thấy trách nhiệm đó của từng đơn vị trong hệ thống.

Vấn đề thứ hai, chúng ta cũng phải nhìn thằng vào vấn đề. Chúng ta thiếu tiền thì kêu ngân hàng, nhưng đôi khi chúng ta cũng phải nhìn nhận lại bản thân. Theo đánh giá của chúng tôi và theo thực tiễn, nếu doanh nghiệp có tình hình tài chính lành mạnh thì lãi suất ngân hàng lên đến 25% thì doanh nghiệp cũng không gặp vấn đề gì.

Hiện, khó khăn lớn là hầu hết nguồn vốn của doanh nghiệp đều từ ngân hàng và đó là điều không lành mạnh. Trên thế giới, ít nhất ông chủ tiến hành sản xuất kinh doanh phải có 1 trên 3 đồng vốn. Đồng vốn thứ 2 có thể kêu gọi bạn bè, còn 1 đồng đi vay vốn ngân hàng. Nguồn vốn ngân hàng chỉ là vốn lưu động.

Tôi xin nói lại là thị trường ngân hàng là thị trường tiền tệ, mà thị trường tiền tệ là thị trường vốn ngắn hạn. Nói cách khác, ngân hàng chỉ cho vay vốn lưu động, còn vốn đầu tư phải là vốn tự có hoặc huy động trên thị trường vốn. Hãy thử làm một phép tính, bạn có 2/3 vốn, vay 1/3 còn lại từ ngân hàng với lãi suất 25% một năm thì một doanh nghiệp bình thường cũng quay vòng được vốn 3, 4 lần.

Với lợi nhuận của mỗi vòng quay nhân với 3, 4 lần thì doanh nghiệp thừa sức trả được lãi suất của ngân hàng, không những duy trì mà còn phát triển được sản xuất. Nhưng ở Việt Nam hiện nay, vốn của các doanh nghiệp về cơ bản là từ ngân hàng, lên tới 80, 90%, nên khi thắt chặt tín dụng là gặp khó khăn.

Do đó, dưới góc nhìn tình hình tài chính của các doanh nghiệp, chúng ta phải tái cấu trúc doanh nghiệp. Theo đề án của Chính phủ đang được xây dựng, thì trọng tâm là tái cơ cấu doanh nghiệp nhà nước. Tôi rất mong độc giả và doanh nghiệp của mình nhanh chóng có kế hoạch điều chỉnh lại sản xuất, điều chỉnh lại tình hình sản xuất để phù hợp với nhu cầu phát triển của nền kinh tế trong giai đoạn mới.  

Xin Thống đốc cho biết, một số ngân hàng sẽ sáp nhập trong thời gian tới, tình hình nợ xấu trong năm 2011, có số liệu chính xác như thế nào, tăng trưởng tín dụng trong năm 2012 được đưa ra mức đề xuất là 15-17%. Vậy ngân hàng nào được thực hiện mức đề xuất này. Tiêu chí phân cấp ngân hàng sẽ được thực hiện như thế nào trong thời gian tới và việc phân cấp này có được công khai không?

Tăng trưởng tín dụng của hệ thống ngân hàng trong năm 2012, theo tinh thần là nghị quyết của Quốc hội cũng như nghị quyết của Chính phủ, toàn hệ thống ngân hàng sẽ tăng trưởng tín dụng ở mức 15-17%.

Thế nhưng năm nay Ngân hàng Nhà nước không cào bằng tỷ lệ này cho tất cả các tổ chức tín dụng mà sẽ phân loại các tổ chức tín dụng để trên cơ sở đó có quy định về tỷ lệ được tăng trưởng tín dụng.

Để phân loại các tổ chức tín dụng bao gồm rất nhiều tiêu chí. Nhưng phần lớn là dựa vào các chỉ tiêu, chỉ số về mức độ lành mạnh trong hoạt động tài chính của tổ chức tín dụng. Nói nôm na, một cơ thể khỏe mạnh thì chúng ta cũng tạo mọi điều kiện để cơ thể đó phát triển. Còn cơ thể bắt đầu có dấu hiệu bị bệnh, chúng ta cũng có điều trị hay chế độ ăn kiêng ở mức vừa phải để vẫn đảm bảo được sức khỏe nhưng cũng qua được bệnh tật. Những người nào mắc bệnh nặng thì chế độ ăn kiêng, chế độ điều trị nặng hơn nữa. Hay có những người nặng hơn nữa, chẳng ăn uống được gì thì chỉ có chuyển thuốc.

Cũng tương tự như vậy, trong hệ thống các ngân hàng, chúng tôi cũng làm như thế. Các tiêu chí này, chúng tôi sẽ công khai minh bạch, thậm chí mỗi tổ chức tín dụng đều có thể biết mình nằm ở nhóm nào.

Tình hình nợ xấu, tôi đã nói. Năm 2011, nhìn chung nợ xấu có tăng lên so với 2010, đây cũng là điều dễ hiểu khi chúng ta thắt chặt lại tăng trưởng tín dụng… và do những khó khăn trong kinh tế trong nước và ngoài nước. Nhưng như tôi đã trả lời ở trên, nợ xấu vẫn nằm trong tầm kiểm soát của Ngân hàng Nhà nước. Điều này chúng tôi đã khẳng định rất rõ trong hội nghị tổng kết ngành ngân hàng trong thời gian vừa qua.

Sẽ nỗ lực hạn chế tiêu dùng bằng tiền mặt

Hệ thống ngân hàng điện tử ở Việt Nam đã hết sức phát triển nhưng thói quen tiêu dùng bằng tiền mặt ở Việt Nam vẫn là phổ biến. Để đẩy mạnh thanh toán không dùng tiền mặt, sắp tới Ngân hàng Nhà nước sẽ làm gì và tới bao giờ thì thanh toán điện tử sẽ ở mức cân bằng với tiền mặt đối với người dân?

Tôi có thể khẳng định đây là mong muốn của Chính phủ, của Ngân hàng Nhà nước. Nguyên nhân là chi phí xử lý tiền mặt là rất lớn, ví dụ chi phí in tiền nhiều khi cao hơn mệnh giá đồng tiền và tiền mặt chỉ có một thời gian lưu hành nhất định. Trong khâu thanh toán của nền kinh tế, chi phí kiểm đếm, bảo quản và vận chuyển tiền mặt rất lớn.

Do vậy, bớt sử dụng tiền mặt trong nền kinh tế đó là mục tiêu của Chính phủ và của cả Ngân hàng Nhà nước. Tuy nhiên, việc này không dễ dàng, do những khó khăn xuất phát từ tập quán, từ văn hóa, từ cấu trúc hạ tầng kinh tế.

Ví dụ, trên thế giới, trước đây rất phổ biến chi tiêu bằng séc, nhưng hình thức này cũng rất tốn kém. Với kinh tế Mỹ hết sức hiện đại, hiện chi tiêu bằng séc cũng rất phổ biến vì đó tập quán của họ, nhất là với các ông chủ lớn. Hay như ở Nhật, tỷ lệ thanh toán tiền mặt cũng khá cao so với các nước phát triển do tập quán của nước này.

Do đó, để đạt mục tiêu đẩy mạnh thanh toán không dùng tiền mặt, đòi hỏi sự cố gắng của mọi tầng lớp xã hội, hay nói cách phải thay đổi được tập quán của người dân, dĩ nhiên trong đó Ngân hàng Nhà nước có vai trò quan trọng. Trong thời gian qua, cơ sở hạ tầng cho hoạt động thanh toán không dùng tiền mặt đã được xây dựng bước đầu và hi vọng tiến trình sẽ diễn ra nhanh chóng cùng với việc nâng cao dân trí, nâng cao cơ sở hạ tầng.

Trong năm 2012, trong thể lệ tín dụng mới, chúng tôi sẽ quy định hết sức ngặt nghèo về quy định giải ngân dùng tiền mặt với nền kinh tế, góp phần hạn chế tiền mặt trong nền kinh tế. Một chương trình lớn của hệ thống ngân hàng nhiệm kỳ này là tạo bước tiến mạnh mẽ trong phát triển thanh toán không dùng tiền mặt.

Thống đốc là người ưa ví von, và tôi thích cách ông dùng những hình ảnh dân dã, đời thường để diễn đạt những nội dung phức tạp của lĩnh vực ngân hàng. Ông có bí quyết gì không?

Nói chung, tôi cũng không có bí quyết gì. Với chúng tôi những người làm chuyên môn, nói vấn đề gì là hiểu nhau ngay, nhưng khi nói với khán thính giả của cả nước, nếu dùng thuật ngữ chuyên môn thì làm sao biến khái niệm đó trở thành bình thường, dễ hiểu để cho mọi người đều cảm nhận. Như vậy, chúng ta phải tìm ra ngôn ngữ chung hết sức đời thường để làm sao ai cũng hiểu được.

Chính sách được nới lỏng, chứng khoán lại “hồng hào”

Trong năm 2012, chủ trương của Chính phủ là giải quyết vấn đề thanh khoản của ngân hàng. Vậy theo Thống đốc, có biện pháp nào giúp thị trường chứng khoán được cải thiện không?

Để trả lời câu hỏi của bạn thì cần nhiều thời gian. Nói có hoặc không thì đều chưa hoàn thành trách nhiệm.

Chúng ta phải có cái nhìn rất đầy đủ và chính xác về thị trường chứng khoán, thị trường tiền tệ. Thị trường tiền tệ là thị trường vốn ngắn hạn, dưới một năm và là thị trường sử dụng tiền tạm thời nhàn rỗi trong nền kinh tế. Khi bạn có tiền nhàn rỗi, bạn gửi tiền ở ngân hàng để  ngân hàng giữ hộ tiền và để sử dụng các dịch vụ ngân hàng. Thêm vào đó, các ngân hàng có thể kinh doanh khoản tiền đó, tạo lợi nhuận và trả cho bạn một lãi suất nhất định. Do đó, lãi suất phụ thuộc vào hiệu quả kinh doanh của hệ thống ngân hàng và được điều tiết trên cơ sở chính sách tiền tệ của Ngân hàng Nhà nước trong từng thời kỳ.

Còn thị trường vốn mang tính trung và dài hạn. Như tôi đã nói, để doanh nghiệp phát triển lành mạnh, thì người ta chỉ đến vay ngân hàng khi cần sử dụng vốn lưu động. Tất nhiên có những doanh nghiệp lành mạnh vay vốn của ngân hàng để đầu tư. Trong bể vốn của ngân hàng, sau một thời gian thống kê, dù tỷ lệ thời hạn có thể khác nhau, nhưng có một tỷ lệ vốn đọng lại có thể mang ra cho vay trung và dài hạn.

Chính vì vậy, Ngân hàng Nhà nước quy định tỷ lệ vốn cho vay trung và dài hạn không được vượt quá 30% vốn ngắn hạn. Tiền gửi vào luôn luôn là ngắn hạn và có thể rút ra bất cứ lúc nào, nhưng tỷ lệ vốn luôn đọng lại trong hệ thống ngân hàng vào khoảng 30%. Cho nên, bên cạnh cho vay vốn lưu động, các tổ chức tín dụng có thể cho vay vốn đầu tư một tỷ lệ nhất định.

Về vấn đề ngân hàng dùng tiền ngân hàng cho vay chứng khoán để giúp thị trường chứng khoán cải thiện hơn, nếu ngân hàng sử dụng trong tỷ lệ cho phép thì có thể được, không ảnh hưởng đến tính chất dòng vốn của thị trường tiền tệ. Tuy nhiên, nếu ngân hàng sử dụng quá tỷ lệ này, thì vừa ảnh hưởng đến  ngân hàng, vừa ảnh hưởng thị trường chứng khoán. Do vậy, về bản chất, không thể dùng vốn ngắn hạn của ngân hàng để cho vay trên thị trường chứng khoán là thị trường vốn trung và dài hạn, mà ngân hàng chỉ có thể cho vay một tỷ lệ nhất định. Thời gian qua chúng ta đã làm đúng như thế.

Còn trong tình hình hiện nay, do chúng ta đang thắt chặt tín dụng, ưu tiên tín dụng cho sản xuất kinh doanh, thì tỷ lệ nói trên đã giảm xuống rất thấp, hiện khoảng 3%. Chúng tôi khẳng định tất cả những biện pháp đang làm hiện nay, đặc biệt là quá trình tái cấu trúc hệ thống ngân hàng, là những bước đi cơ bản, vững chắc để giúp không chỉ lập lại - hay chúng tôi đang gọi là trả lại tên đúng nghĩa - cho thị trường tiền tệ và thị trường vốn, trong đó có thị trường chứng khoán.

Trước đây, đầu tư toàn xã hội lên tới 44% GDP, trong khi tích lũy chỉ 20%, tức là lúc nào cũng ở tình trạng nhu cầu đầu tư rất cao, nhưng khả năng về vốn rất thấp. Từ đó, hệ thống ngân hàng nâng lãi suất lên, đua nhau hút phần 20% nêu trên vì hút bao nhiêu cũng cho vay ra được.

Và khi lãi suất lên cao như vậy, thị trường vốn không còn gì để hoạt động, thị trường tiền tệ đồng thời thực hiện chức năng thị trường vốn. Như thực tế các bạn đã thấy, khi Ngân hàng Nhà nước thực hiện chính sách tiền tệ thắt chặt, các ngân hàng thương mại vẫn hút vốn, thì thị trường chứng khoán rất “xanh xao”, khi nào chính sách được nới lỏng thì tỷ lệ cho vay chứng khoán cao lên, thị trường chứng khoán lại “hồng hào”.

Như vậy, việc ngân hàng bơm vốn để cải thiện thị trường chứng khoán là biện pháp sai về bản chất. Do vậy, về căn cơ, phải lập lại trật tự trên hai thị trường này, thị trường tiền tệ phải trở lại với vai trò của nó, thì thị trường vốn mới phát triển được.

Trở lại ý kiến của một bạn về lãi suất tại Trung Quốc, tôi cho rằng bạn đã nhầm. Tại Trung Quốc, họ quy định trần lãi suất huy động và sàn lãi suất cho vay, bạn nói rằng ngân hàng thương mại muốn huy động bao nhiêu cũng được là không phải. Lạm phát tại Trung Quốc ở thời điểm này khoảng 5,5-5,6%, trong khi trần lãi suất khoảng 3,4%. Tại sao Trung Quốc không đặt ra vấn đề lãi suất thực dương, thì như tôi đã nói ở trên, lãi suất ngân hàng không đặt ra vấn đề cao hay thấp.

Nói như vậy để thấy, để thị trường tiền tệ trở về đúng bản chất của nó, không phải là một kênh đầu tư vốn mà chỉ thu hút tiền tạm thời nhàn rỗ, lãi suất chỉ ở một mức độ nhất định. Nếu lãi suất không hấp dẫn, người dân sẽ tìm sang kênh đầu tư khác, ví dụ như ngoại tệ. Hiện chúng tôi đang điều hành chính sách tiền tệ theo hướng nâng cao giá trị đồng Việt Nam, nên như thực tế năm 2011, nếu đầu tư vào ngoại tệ thì không có lợi bằng đầu tư vào nội tệ, tức là ngoại tệ không còn hấp dẫn.

Như vậy, người ta có thể đầu tư vào vàng, nhưng như tôi đã nói, chính sách về quản lý thị trường vàng trong thời gian tới sẽ làm cho thị trường này không còn hấp dẫn nữa.

Về thị trường bất động sản, chính sách của chúng ta cũng khiến thị trường này không còn nóng, sốt, biến động lớn.

Như vậy, người dân sẽ đầu tư vào thị trường vốn, thị trường trái phiếu, cổ phiếu và đó là hướng chúng tôi đang đi. Nhưng bên cạnh đó, chúng tôi cũng rất mong các cơ quan quản lý Nhà nước khác về thị trường vốn cũng phải có bước đi thích hợp.

Thưa Thống đốc, giúp thị trường chứng khoán hồi phục để giải quyết vấn đề thanh khoản của ngân hàng, với cách hiểu coi thị trường chứng khoán là một kênh huy động vốn, Ngân hàng Nhà nước có thể có một vài biện pháp kích hoạt để thị trường này hoạt động và sau một thời gian có thể tự hồi phục.

Như tôi đã phân tích, vốn của nền kinh tế chỉ có 20% tích lũy, hoặc là chạy vào thị trường vốn, hoặc là thị trường tiền tệ và chạy theo các nhóm khác. Bằng cách đang làm, chúng tôi đang muốn hướng dòng vốn sẽ chạy vào thị trường vốn nữa, chứ không chỉ chạy vào thị trường tiền tệ như hiện nay.

Một trong những khó khăn lớn nhất của nền kinh tế hiện nay là vốn. Trong khi mọi kênh huy động đều gặp khó khăn, thì theo tôi được biết, trong dân và trong các ngân hàng thương mại hiện đang nắm giữ lượng vàng rất lớn, có con số nói lên đến hàng trăm tấn. Vậy sắp tới Ngân hàng Nhà nước có chính sách gì để chuyển đổi lượng vàng này thành tiền trong lưu thông?

Đây cũng là một trong những chủ trương chúng tôi đang theo đuổi quyết liệt. Theo thống kê của chúng tôi, trong nền kinh tế có từ 200-300 tấn vàng. Nhưng phần lớn số vàng này nằm trong dân.

Nói cách khác, như người ta vẫn hay nói đùa, dân thì giàu nhưng nước thì chưa mạnh. Chủ trương của chúng ta là phải làm sao để dân giàu nhưng nước phải mạnh. Nói một cách khác, dân thì có vàng, nhưng vàng đó phải được huy động vào cho việc phục vụ phát triển sản xuất kinh doanh, phát triển đất nước. Việc thực hiện điều đó trong giai đoạn vừa qua còn yếu kém.

Hiện Ngân hàng Nhà nước đang xây dựng đề án để làm sao huy động được nguồn lực này trong dân phục vụ cho việc phát triển kinh tế - xã hội của đất nước. Rất cám ơn bạn và khi nào có những sản phẩm như thế, mong bạn quan tâm và cùng trao đổi thêm với chúng tôi.

Không sáp nhập công ty SJC

Trong phiên chất vấn tại kỳ họp thứ 2 Quốc hội khóa 13 ngày 24/11/2011, Thống đốc đã khẳng định: “Công ty tài chính vàng bạc đá quý Sài Gòn sẽ trực thuộc Ngân hàng Nhà nước. Kể từ giờ phút này trở đi, vàng SJC trở thành nhãn hiệu vàng của Ngân hàng Nhà nước”. Đây là câu trả lời khá thuyết phục của người đứng đầu Ngân hàng Nhà nước về việc Ngân hàng Nhà nước sẽ giữ độc quyền trong việc sản xuất và kinh doanh vàng miếng.  Tuy nhiên vẫn có một số  ý kiến chưa “thông” từ một số nhãn hiệu vàng khác, cho rằng việc độc quyền sẽ mang lại hệ lụy không tốt. Xin Thống đốc khẳng định lại lý do lựa chọn trên và giải pháp hài hòa lợi ích các bên? Lộ trình và các biện pháp sắp tới xóa bỏ kinh doanh vàng miếng trên thị trường tự do, kéo giá vàng sát giá quốc tế?

Tôi xin điều chỉnh lại một chút, tôi không bao giờ nói rằng, tôi sáp nhập công ty SJC.

SJC là công ty rất lớn, trong đó có phần kinh doanh vàng trang sức mỹ nghệ. Trên thị trường, tôi thấy đây là nhãn hiệu vàng trang sức nổi tiếng. Bên cạnh vàng trang sức, họ có hoạt động sản xuất và kinh doanh vàng miếng. Ngân hàng Nhà nước không có chức năng kinh doanh sản xuất vàng trang sức. Bản thân chúng tôi không được pháp luật cho phép và cũng không có nhu cầu lấy phần ấy.

Do vậy, chúng ta phải khẳng định, chỉ lấy phần sản xuất vàng miếng của công ty này, hay nói một cách khác, có một xưởng in/ dập ra loại vàng miếng này. Nay cái xưởng đó, hoàn toàn do Ngân hàng Nhà nước chi phối kể cả về mặt sản xuất, như nguyên liệu đưa vào, kế hoạch sản xuất dập ra bao nhiêu, sản phẩm sau khi dập ra do Ngân hàng Nhà nước quản lý.

Còn toàn bộ các hoạt động sản xuất kinh doanh khác của SJC vẫn của SJC. Chúng tôi khẳng định như thế, không sẽ tạo ra sự hiểu lầm.

Nét khác trong quy định mới của Chính phủ là Nhà nước độc quyền về sản xuất vàng miếng. Thế có nghĩa là vàng SJC hiện nay, nhãn hiệu vàng miếng SJC sẽ được hiểu rằng là không phải của công ty SJC, mà là của Nhà nước. Còn nếu có nhãn vàng nào thấy từ nay trở đi mình không được sản xuất nữa, thì vì lợi ích của Nhà nước, lợi ích quốc gia, họ phải hy sinh lợi ích của mình.

Thế nhưng trên thực tế, chúng tôi thấy rằng, lợi ích của các nhãn vàng khác cũng ở mức độ  không lớn. Thời gian vừa qua, lượng vàng SJC chiếm tới 90% lượng vàng giao dịch trên thị trường. Chỉ có 10% chia cho 7 nhãn mác khác, có nghĩa là mỗi nhãn mác cũng chỉ chiếm vài ba phần trăm.

Tôi cho rằng, đây là chủ trương mới của Nhà nước là Nhà nước độc quyền trong sản xuất vàng miếng - đây là lợi ích quốc gia. Còn không có lợi ích độc quyền của SJC ảnh hưởng tới các nhãn vàng khác, đấy là của Nhà nước và chỉ có của Nhà nước mà thôi. Cũng như tiền tệ, chỉ có đồng Việt Nam của Nhà nước, do Ngân hàng Nhà nước phát hành.

Đến một lúc nào đó, chúng tôi cũng có thể tiến tới đổi tên thành SBV, nhưng vấn chi phí rất lớn trong việc chúng ta đổi lại. Chúng ta phải làm dần dần, để đảm bảo không gây xáo trộn quá lớn trong việc lưu chuyển vàng hiện có. Do đó, vấn đề thứ hai là tiết giảm chi phí.

Từng bước công khai hóa tất cả thông tin ngân hàng

Khi Ngân hàng Nhà nước đưa ra Thông tư 35 quy định việc cung cấp và công bố thông tin, các chuyên gia, đặc biệt là chuyên gia quốc tế đã đánh giá rất cao. Tôi đọc trên Cổng thông tin điện tử Chính phủ thấy một chuyên gia của Ngân hàng Thế giới đánh giá Thông tư 35 là bước tiến quan trọng hướng tới việc minh bạch thông tin ngành ngân hàng. Rõ ràng thông tin có minh bạch thì niềm tin của người dân vào ngân hàng mới được củng cố. Vậy tại sao Ngân hàng Nhà nước lại mới chỉ quy định công bố 5/12 chỉ số cốt lõi của bộ chỉ số lành mạnh tài chính quốc gia?  Khi nào chúng ta sẽ công bố tất cả 12 chỉ số này? Thống đốc bình luận gì về vai trò của minh bạch thông tin trong hệ thống ngân hàng?

Minh bạch thông tin rất quan trọng, không chỉ trong hoạt động ngân hàng, ở đâu chúng ta minh bạch thì người dân có thể tiếp cận thông tin chính xác, quyết định ứng xử chính xác và lường hết được các vấn đề có thể xảy ra.

Tuy nhiên, cũng phải thấy ngân hàng là lĩnh vực hết sức nhạy cảm. Cho tới nay chúng ta mới quyết liệt đặt ra vấn đề minh bạch thông tin, có nghĩa là rất nhiều thông tin khác nữa chúng ta vẫn chưa làm cho nó minh bạch.

Và trong lĩnh vực ngân hàng, có những thông tin nếu chưa hiểu biết nhiều về lĩnh vực đó, chúng ta có thể bị sốc. Để tránh tình trạng đó, một bộ phận thông tin trong lĩnh vực ngân hàng chưa hoàn toàn được công khai minh bạch.

Nhưng hướng đi của Ngân hàng Nhà nước, ngay như trong Thông tư 35 đã nói, là cũng sẽ từng bước công khai hóa tất cả thông tin trong hoạt động ngân hàng. Điều này không chỉ giúp ích cho người dân và doanh nghiệp mà còn đặc biệt giúp ích cho Ngân hàng Nhà nước trong hoạt động quản lý.

Hiện Chính phủ đã đồng ý và vào tháng 6/2012, các bộ ngành sẽ bắt đầu những bước đi đầu tiên trong chương trình đánh giá khu vực tài chính Việt Nam với sự phối hợp của Ngân hàng Thế giới và Quỹ Tiền tệ Quốc tế. Chúng tôi cho rằng khi chương trình này kết thúc, toàn bộ thông tin của hệ thống tài chính Việt Nam nói chung và của hệ thống ngân hàng nói riêng sẽ được công khai, minh bạch.

Hiện tôi thấy các ngân hàng thương mại thường mua bán nợ xấu khác nhau để làm giảm nợ xấu xuống để tránh các hạn chế của Ngân hàng Nhà nước khi tỷ lệ nợ xấu vượt quá quy định. Thực tế việc mua bán này nhằm đối phó với Ngân hàng Nhà nước và như vậy không phản ánh thực tế nợ xấu của các ngân hàng thương mại.  Vấn đề này Ngân hàng Nhà nước có biết hay không và Ngân hàng Nhà nước cần có chính sách như thế nào để xử phạt các ngân hàng thương mại nêu trên? Hiện nay tôi thấy các ngân hàng thương mại cũng đã lách luật bằng việc bán trái phiếu cho khách hàng, nhằm lách trần lãi suất huy động. Vậy việc bán trái phiếu như vậy có vi phạm trần lãi suất và Ngân hàng Nhà nước có chính sách gì xử lý triệt để?

Thứ nhất, về mua bán nợ, các văn bản quy định pháp luật của Ngân hàng Nhà nước cho phép các tổ chức tín dụng được quyền mua bán nợ với nhau.

Ví dụ tôi làm ngân hàng, có các dự án tốt, cho vay tốt, nhưng vì hoạt động ngân hàng là hoạt động hết sức rủi ro, có những lúc tôi cảm  nhận thấy rằng, bản thân ngân hàng của tôi tình hình thanh khoản không được tốt lắm. Trong khi tình hình thanh khoản của ngân hàng bên cạnh đang rất tốt, nhưng lại không có dự án nào cả, hoặc uy tín chưa cao nên khách hàng chưa tìm tới.

Để dáp ứng nhu cầu cả hai bên, tôi thì bán bớt các khoản nợ để đảm bảo thanh khoản của mình, ông hàng xóm muốn mua khoản nợ để tăng dư nợ tín dụng của mình trong khi đang có nhiều tiền. Vì tiền ngân hàng là tiền nhàn rỗi trong dân. Đã sử dụng tiền của dân thì phải trả lãi suất, mà lại không đầu tư được vào dự án nào thì ngân hàng có khả năng là bị lỗ. Như vậy, đáp ứng được cả nhu cầu của 2 bên, việc mua bán nợ trong hệ thống các tổ chức tín dụng là hoạt động bình thường.

Chỉ có điều, trong cuộc sống, đôi khi mục tiêu mua bán nợ bị bóp méo như bạn phản ánh. Nhưng đứng trên góc độ pháp luật, thì việc này được phép. Còn bản chất của từng vấn đề, vụ việc, chúng tôi cũng phải thanh tra giám sát để biết được có trường hợp nào lách luật hay không.

Còn về trần lãi suất, như tôi đã trình bày ở trên, hiện nay, nhiều tổ chức tín dụng lách trần lãi suất hết sức tinh vi, không dễ gì phát hiện ngay được. Bởi vì trên cơ sở là hiện nay chúng ta cho phép các tổ chức tín dụng thực hiện rất nhiều loại giao dịch khác nhau. Thông qua các giao dịch dưới nhiều hình thức, dưới nhiều sơ đồ khác nhau, họ vẫn lách được trần.

Chúng tôi cũng đang chỉ đạo cơ quan thanh tra giám sát ngân hàng nghiên cứu kỹ để có thể sớm phát hiện những trường hợp như thế này. 

Về việc hợp nhất 3 ngân hàng, có chuyên gia cho rằng đây là động thái đúng, hiệu quả, nhưng cũng có chuyên gia cho rằng việc gom 3 ngân hàng yếu lại có thể cho ra một thực thể có thể yếu hơn. Thống đốc có thể nói rõ hơn đề người dân yên tâm?

Như tôi đã trình bày, tôi thừa nhận đây là 3 tổ chức tín dụng yếu kém, gặp khó khăn về tài chính, trước khi hợp nhất đã mất khả năng thanh khoản và Ngân hàng Nhà nước đã phải tái cấp vốn.

Chúng tôi cũng nhận thấy rằng việc hợp nhất có ý nghĩa hoặc tiền đề mới cho tiến hành hợp nhất, chứ không phải việc cộng số học 3 ngân hàng lại. Do tình hình tài chính, về chủ sở hữu của 3 ngân hàng, phương án hợp nhất sẽ tạo thuận lợi hơn cho hoạt động của 3 ngân hàng trong giai đoạn tiếp theo, cũng như hoạt động quản lý của Ngân hàng Nhà nước.

Cổ đông của 3 ngân hàng sẽ có thêm những điều kiện khác nữa, ví dụ có thể huy động các tổ chức tín dụng khác trong và ngoài nước mua các dự án của họ để tái lập khả năng thanh khoản. Họ có thể kêu gọi các cổ đông khác tham gia ngân hàng hợp nhất vì ngân hàng mới có quy mô đủ lớn, đủ sức hấp dẫn với các nhà đầu mới.

Đó là những lý do mà chúng tôi cho rằng việc hợp nhất này không chỉ là phép cộng số học mà cũng sẽ tạo ra giá trị vô hình mới mà nếu vận dụng được sẽ giúp ngân hàng vượt qua khó khăn trong thời gian tới. Tình hình thực tế như tôi đã trình bày ở trên cũng cho thấy việc hợp nhất là hướng đi đúng đắn.
Attention
The original article is written and published on VnEconomy in Vietnamese only. To read the full article, please use the Google Translate tool below to translate the content into your preferred language.
VnEconomy is not responsible for the translation.

Google translate