Theo FiinRatings, đòn bẩy tài chính của các doanh nghiệp chậm trả nợ trái phiếu hiện nay tăng gấp 9,5 lần so với thời điểm cuối năm 2017.
Tuy nhiên, tài sản hữu hình, thường là tài sản sinh lời của các công ty bất động sản có mức tăng khiêm tốn từ 25 nghìn tỷ đồng (2017) lên 33 nghìn tỷ đồng (2021)...
Trong khi đó, khoản phải thu (thường đến từ hợp đồng cho vay các bên liên quan) và khoản đầu tư dài hạn (thường là khoản đầu tư vào các công ty con và liên kết) lại tăng gấp hơn 4 lần. Vì dòng tiền không được tập trung đầu tư vào tài sản sinh lời nên lợi nhuận từ hoạt động kinh doanh chính không tăng trưởng tương xứng với nợ vay.
Khả năng trả nợ của các doanh nghiệp chậm trả nợ trái phiếu giảm mạnh do EBITDA chỉ tăng 4 lần trong khi nợ vay tăng 15 lần. Trong một thời gian dài, nợ vay trên tương quan với lợi nhuận EBITDA (lợi nhuận không gần với dòng tiền tạo ra mới trong kỳ) ở mức rất cao, lên tới 30,5 vào năm 2020 lần và 23,5 lần vào năm 2021. Đây là mức quá cao so với kỳ hạn bình quân của một trái phiếu và các nghĩa vụ nợ của các doanh nghiệp này.
CÓ 69 TỔ CHỨC PHÁT HÀNH KHÔNG TRẢ ĐƯỢC NỢ KHI ĐÁO HẠN TRÁI PHIẾU
Theo FiinRatings, tính đến ngày 17/3/2023, đã có 69 tổ chức phát hành có một hoặc nhiều hơn lô trái phiếu lưu hành đã không thể đáp ứng nghĩa vụ nợ với tổng giá trị 94,43 nghìn tỷ VND (bao gồm 4.157,4 nghìn tỷ VND trái phiếu doanh nghiệp chậm trả đã đáo hạn từ 2022), chiếm 8,15% giá trị trái phiếu doanh nghiệp đang lưu hành.
Bên cạnh các yếu tố tác động chung của môi trường kinh doanh như chính sách kiểm soát tín dụng, môi trường lãi suất cao, kênh huy động trái phiếu suy giảm mạnh, pháp lý dự án bị đình trệ hoặc thay đổi chính sách thì các tổ chức phát hành rơi vào tình trạng trên đều có những đặc điểm chính về chất lượng tín dụng yếu trong một thời gian dài trước khi vi phạm nghĩa vụ nợ, bao gồm: (i) mức đòn bảy nợ rất cao; (ii) dòng tiền trả nợ yếu do vay nợ tăng nhưng vốn chủ yếu tồn đọng ở các khoản phải thu và đầu tư tài chính dài hạn thay vì tạo ra tài sản cố định hữu hình hoặc hàng tông kho hoàn thành dẫn đến rủi ro thanh khoản ở mức Cao và Rất cao và (iii) mất cân đối về kỳ hạn. Kỳ hạn nợ ngắn trong khi dòng tiền kinh doanh âm nhiều kỳ liên tiếp trước khi xảy ra sự kiện vi phạm nợ.
Cụ thể, trong đó có 65 tổ chức phát hành vi phạm nghĩa vụ nợ và 4 tổ chức phát hành có trái phiếu doanh nghiệp đến hạn nhưng đã được tái cơ cấu nợ. Trong tổng số 69 tổ chức phát hành chậm trả, có 43 tổ chức phát hành là doanh nghiệp trong ngành bất động sản với tổng giá trị trái phiếu doanh nghiệp chậm trả nợ ở mức 78,9 nghìn tỷ VND, chiếm 83,6% với tổng giá trị của các doanh nghiệp chậm trả nợ trái phiếu.
Trái phiếu đã ở tình huống chậm trả chiếm 37% tổng giá trị trái phiếu doanh nghiệp đang lưu hành ở mức 169,717 của các doanh nghiệp này. Phần trái phiếu còn lại chưa đến hạn thanh toán là 75,286 nghìn tỷ và có kỳ đáo hạn chủ yếu vào năm 2023 (ước tính 30,2 nghìn tỷ) và 2024 (ước tính 21,9 nghìn tỷ).
Ngành bất động sản là ngành có tỷ lệ nợ xấu trái phiếu ở mức 20,17% cao thứ hai sau ngành năng lượng. Tuy nhiên, ngành bất động sản có quy mô lưu hành lớn nhất ở mức 396,3 nghìn tỷ, chiếm 33,8% tổng giá trị lưu hành. Thực tế, trong tổng số 69 tổ chức phát hành chậm trả nợ trái phiếu doanh nghiệp thì số các doanh nghiệp trong ngành bất động sản chiếm tới 62,3%.
Ngành năng lượng mặc dù có tỷ lệ nợ xấu trái phiếu ở mức cao nhất, lên tới 63,1% nhưng ở quy mô rất nhỏ và có tính tập trung vào một số ít doanh nghiệp, chiếm 0,3% tổng giá trị trái phiếu lưu hành.
KỲ VỌNG CÁC NÚT THẮT CHÍNH SÁCH ĐƯỢC THÁO GỠ
Quy mô thị trường trái phiếu doanh nghiệp riêng lẻ hiện ở mức 1,15 triệu tỷ VND tính theo giá trị lưu hành tại thời điểm 8/3/2023. Trong đó, trái phiếu của các tổ chức phát hành phi ngân hàng là 788,9 nghìn tỷ VND và “bank-bond” ở mức 368 nghìn tỷ. Trong cơ cấu của trái phiếu phi ngân hàng 788,9 nghìn tỷ VND thì trái phiếu bất động sản có giá trị 396,3 nghìn tỷ, tức chiếm khoảng 50% tổng giá trị trái phiếu phi ngân hàng và 34% tổng trái phiếu doanh nghiệp toàn thị trường đang lưu hành. Lĩnh vực khác, Thương mại & Dịch vụ và Xây dựng đóng góp lần lượt 11%, 9%, và 8% giá trị dư nợ.
Tổ chức phát hành tiếp tục gặp khó khăn phát hành trước tình trạng cầu yếu, đồng thời chờ đợi những thay đổi hỗ trợ từ phía chính quyền như Nghị định 08/2023/NĐ-CP và chính sách cụ thể về giải ngân hạn mức tín dụng cho năm 2023. Các biện pháp trên sẽ giải tỏa áp lực cho các tổ chức phát hành trong ngắn hạn, tạo điều kiện cho việc cải thiện tháo gỡ áp lực thanh khoản về lâu dài.
So với tháng 3/2022 với 17.53 nghìn tỷ VND trái phiếu bất động sản phát hành riêng lẻ được ghi nhận, hoạt động phát hành trái phiếu doanh nghiệp của nhóm ngành này đã giảm 97,1% về quy mô phát hành và chưa thể phục hồi dù đã bước sang năm 2023, đặc biệt là ở giai đoạn tháng 10/2022 – 2/2023. Đây cũng là giai đoạn doanh nghiệp chịu nhiều ảnh hưởng từ các vụ việc vi phạm phát hành trái phiếu, chính sách kiểm soát tín dụng bất động sản, mặt bằng lãi suất gia tăng và ban hành Nghị định 65 về phát hành riêng lẻ, khiến chi phí vốn giá tăng và quy trình huy động vốn trái phiếu doanh nghiệp cho hoạt động kinh doanh gặp nhiều khó khăn hơn trước.
Việc tiếp diễn tình trạng trên có thể đẩy thêm nhiều doanh nghiệp, tập trung nhiều ở lĩnh vực bất động sản, chậm thanh toán nghĩa vụ nợ cho các trái chủ trong giai đoạn quý 2 và quý 3/2023 – đỉnh điểm đáo hạn trái phiếu doanh nghiệp của ngành này. Tuy nhiên, động thái hỗ trợ vừa qua như giảm lãi suất cho vay, Nghị quyết 33/2023/NQ-CP và Nghị định 08/2023/NĐ-CP ra đời được chúng tôi kỳ vọng sẽ góp phần giải quyết áp lực nghĩa vụ nợ qua hoạt động tái cấu trúc nợ, cấp tín dụng mới cho các dự án sạch về pháp lý cũng như hoạt động triển khai và mở bán dần được khôi phục.