April 03, 2023 | 16:10 GMT+7

Phương thức hỗ trợ giảm nghèo bền vững phù hợp với điều kiện từng địa phương

Nhật Dương -

Dù đạt được nhiều thành quả tích cực song kết quả giảm nghèo tại nước ta vẫn chưa bền vững, do đó cần có cách tiếp cận mới, thay đổi phương thức hỗ trợ giảm nghèo phù hợp với điều kiện thực tế của từng địa phương, đặc biệt ở vùng đồng bào dân tộc thiểu số và miền núi…

Ảnh minh họa.
Ảnh minh họa.

Theo đánh giá của Bộ Lao động – Thương binh và Xã hội, sau 5 năm thực hiện Chương trình mục tiêu giảm nghèo bền vững giai đoạn 2016 – 2020, dù đã đạt được những thành tựu nhưng kết quả giảm nghèo chưa thực sự bền vững tại một số địa phương.

KẾT QUẢ GIẢM NGHÈO CHƯA BỀN VỮNG

Tỷ lệ tái nghèo giai đoạn 2016 - 2020 bình quân 3,74%/năm so với tổng số hộ thoát nghèo; tỷ lệ hộ nghèo phát sinh bình quân là 20,88% so với tổng số hộ thoát nghèo. Một số nơi tỷ lệ hộ nghèo còn rất cao, một số xã vẫn còn hơn 40% hộ nghèo, có nơi còn đến 60%; một số huyện còn đến 40 - 50% hộ nghèo.

Báo cáo nghèo đa chiều 2021 được công bố hồi tháng 7/2022 cũng đánh giá kết quả giảm nghèo của Việt Nam chưa thật sự bền vững, nguy cơ tái nghèo và phát sinh nghèo còn cao. Cùng với đó, chênh lệch mức sống, điều kiện tiếp cận các dịch vụ cơ bản, tiếp cận thị trường, giải quyết việc làm giữa các địa phương, vùng, miền, nhóm dân cư chưa được thu hẹp nhiều. Một số nơi tỷ lệ hộ nghèo còn cao, đời sống còn khó khăn, nhất là vùng đồng bào dân tộc thiểu số và miền núi.

Đáng chú ý là tình trạng thoát nghèo của nhóm đồng bào dân tộc thiểu số còn thiếu bền vững. Theo kết quả điều tra thì 20% nhóm đồng bào dân tộc thiểu số thoát nghèo giai đoạn năm 2016 đã tái nghèo vào năm 2018, trong khi tỷ lệ này của nhóm người Kinh - Hoa chỉ là 7,6%.

Theo ông Phí Mạnh Thắng, Chánh Văn phòng Quốc gia giảm nghèo (Bộ Lao động – Thương binh và Xã hội), một thách thức hiện nay trong công tác giảm nghèo là vẫn còn một bộ phận người nghèo chưa chủ động vươn lên mà còn tâm lý trồng chờ, ỷ lại. Trong khi đó, thiên tai, dịch bệnh có thể làm gia tăng đáng kể số hộ nghèo; đại dịch Covid-19 xảy trong 2 năm vừa qua là một phép thử rõ nhất. 

Mặt khác, dù hệ thống chính sách, pháp luật về giảm nghèo được ban hành khá đồng bộ, toàn diện, nhưng vẫn còn một số cơ chế, chính sách, chương trình giảm nghèo chưa thực sự hiệu quả.

THAY ĐỔI CÁCH THỨC HỖ TRỢ GIẢM NGHÈO

Nhằm đẩy mạnh công tác giảm nghèo, Việt Nam đã nhiều lần điều chỉnh tiêu chí nghèo, từ các tiêu chí về lương thực nhằm bảo đảm có ăn, có mặc, đến áp dụng giá cả, thu nhập, mức sống tối thiểu... Từ năm 2016, chuẩn nghèo đa chiều với các tiêu chí nhận diện là thu nhập và 5 chỉ tiêu (10 chỉ số) về thiết hụt các dịch vụ xã hội đã được áp dụng để đo lường tình trạng nghèo.

Bộ trưởng, Chủ nhiệm Ủy ban Dân tộc Hầu A Lềnh nhìn nhận, việc áp dụng phương pháp tiếp cận nghèo đa chiều đã hỗ trợ rất lớn trong xây dựng, triển khai và đo lường sự thành công của chính sách dân tộc. Theo ông, để giảm nghèo theo chuẩn nghèo đa chiều, vùng đồng bào dân tộc thiểu số và miền núi đã được bố trí nguồn lực để đầu tư cơ sở hạ tầng thiết yếu, các lĩnh vực giáo dục đào tạo, đời sống văn hóa, chăm sóc sức khỏe của đồng bào dân tộc thiểu số được quan tâm hơn.

Trong giai đoạn 2021 - 2025, chuẩn nghèo được nhận diện ở tiêu chí thu nhập và 6 chỉ tiêu (12 chỉ số) dịch vụ xã hội cơ bản, đã nâng tỷ lệ hộ nghèo, hộ cận nghèo tăng từ 5,2% năm 2020 lên 9,35% năm 2022.

Chương trình mục tiêu quốc gia giảm nghèo bền vững giai đoạn này cũng phấn đấu giảm tỷ lệ hộ nghèo duy trì ở mức 1,0 - 1,5%/năm; tỷ lệ hộ nghèo dân tộc thiểu số giảm trên 3,0%/năm. Đến năm 2025 có 30% huyện nghèo, 30% xã đặc biệt khó khăn vùng bãi ngang, ven biển và hải đảo thoát khỏi tình trạng nghèo, đặc biệt khó khăn. Tuy nhiên, để đạt mục tiêu này thì cần phải có những đổi mới, sáng tạo hơn trong cách thực hiện Chương trình mục tiêu quốc gia giảm nghèo bền vững.

Ông Phí Mạnh Thắng, Chánh Văn phòng Quốc gia giảm nghèo thông tin thêm, trong Chỉ thị số 05-CT/TW về tăng cường sự lãnh đạo của Đảng đối với công tác giảm nghèo bền vững đến 2030 đã yêu cầu đổi mới cách tiếp cận về giảm nghèo; tăng cường các chính sách hỗ trợ có điều kiện, bảo trợ xã hội đối với hộ nghèo không có khả năng lao động, chính sách trợ giúp pháp lý.

Cùng với đó hỗ trợ phát triển các mô hình, dự án giảm nghèo, phát triển sản xuất, kinh doanh phù hợp nhằm tạo việc làm, sinh kế, thu nhập cho người nghèo, nhất là ở vùng nông thôn, miền núi; hỗ trợ các mô hình giảm nghèo gắn với quốc phòng, an ninh…

Theo ông Thắng, nếu trước đây việc hỗ trợ cho người nghèo là riêng lẻ theo từng hộ gia đình, thì nay sẽ tập trung vào hỗ trợ theo các mô hình tổ chức sản xuất phù hợp với đặc điểm tình hình của địa phương, nhu cầu của hộ nghèo thông qua việc xây dựng; phát triển và nhân rộng các mô hình; dự án giảm nghèo hỗ trợ phát triển sản xuất, kinh doanh, dịch vụ, du lịch, khởi nghiệp…

Việc thay đổi cách thức hỗ trợ giảm nghèo; nhân rộng các mô hình, sáng kiến xóa đói giảm nghèo tốt; ứng dụng các kết quả nghiên cứu của các tổ chức quốc tế trong việc xóa đói giảm nghèo phù hợp với từng địa phương là cách thực hiện tốt các mục tiêu mới trong giai đoạn tới.

Attention
The original article is written and published on VnEconomy in Vietnamese only. To read the full article, please use the Google Translate tool below to translate the content into your preferred language.
VnEconomy is not responsible for the translation.

Google translate