Tại phiên họp thường kỳ tháng 7 vừa
qua, Chính phủ đã thông qua dự thảo nghị định thí điểm thành lập, tổ
chức, hoạt động và quản lý tập đoàn kinh tế nhà nước.
Theo đánh giá của Bộ Công Thương, từ khi thí điểm thành lập (năm 2005)
đến nay, nhìn về tổng thể, đa số tập đoàn kinh tế nhà nước hoạt động ổn
định, tăng trưởng cao, đáp ứng được yêu cầu sản xuất kinh doanh của các
doanh nghiệp, người tiêu dùng, xuất khẩu, phát huy được sức mạnh tổng
thể, đặc biệt đã góp phần quan trọng vào bình ổn giá cả, chống lạm phát
và ổn định kinh tế xã hội…
Tuy nhiên, nội tại các tập đoàn vẫn tồn tại những hạn chế như một số
lĩnh vực còn mang tính độc quyền, chưa phù hợp với cơ chế cạnh tranh
thị trường; mở rộng ra đa ngành, đa nghề không phải sở trường (sang các
lĩnh vực như ngân hàng, bảo hiểm, bất động sản); một số vẫn hoạt động
nặng tính hình thức của công ty nhà nước... Bản thân các tập đoàn cũng
phải đối mặt với một số đánh giá, nhận định chưa khách quan từ dư luận
xã hội.
Đứng trước yêu cầu tái cấu trúc nền kinh tế trong thời kỳ hậu suy
thoái, liệu các tập đoàn kinh tế có giữ được vai trò cốt lõi như kỳ
vọng?
Về nội dung này, từ 14h-17h hôm nay (thứ Sáu, ngày 6/11), VnEconomy đã
tổ chức một cuộc giao lưu trực tuyến giữa lãnh đạo một số tập đoàn kinh
tế, chuyên gia, nhà quản lý cùng bạn đọc trong và ngoài nước với chủ
đề: “Tập đoàn và con đường phía trước”, với sự tham dự của các vị khách
mời:
- Ông Phạm Tuấn Anh, Phó vụ trưởng Vụ Đổi mới doanh nghiệp (Văn phòng Chính phủ)
- Ông Nguyễn Đức Kiên, Ủy viên Ủy ban Kinh tế của Quốc hội
- Ông Vũ Đức Giang, Tổng giám đốc Tập đoàn Dệt may Việt Nam (Vinatex)
- Ông Nguyễn Ngọc Sự, Phó tổng giám đốc Tập đoàn Dầu khí Việt Nam (Petro Vietnam)
- Ông Phạm Khắc Dũng, Giám đốc Hoạt động, Tập đoàn Bảo Việt
Sau đây, chúng tôi xin những giới thiệu nội dung của cuộc giao lưu trực tuyến này.
Phạm Hưng Hùng - Nam 40 tuổi - Nghiên cứu sinh Đại học Birmingham:
Tôi rất ủng hộ việc duy trì và thành lập các tập đoàn và tổng công ty
lớn trong các lĩnh vực kinh tế then chốt. Các nước công nghiệp hóa muộn
như Nhật Bản, Hàn Quốc cũng đã rất thành công với mô hình này (với các
Keiretsu ở Nhật và Chaebol ở Hàn Quốc). Tuy nhiên, trong quá khứ, các
nước này có điều kiện thực hiện các biện pháp hỗ trợ và bảo hộ rất
mạnh, đặc biệt là khi các tập đoàn của họ còn non trẻ, sức cạnh tranh
còn yếu. Do các biện pháp này hiện nay không còn được phép áp dụng khi
nước ta đã tham gia WTO và hội nhập kinh tế quốc tế và khu vực, nên tôi
rất băn khoăn chúng ta sẽ có giải pháp cụ thể gì để hỗ trợ các tập đoàn
của chúng ta trước sự cạnh tranh ngày càng gia tăng của các công ty
nước ngoài trên thị trường quốc tế cũng như nội địa?
Ông Nguyễn Đức Kiên:
Cảm ơn bạn đã quan tâm. Vấn đề bạn nêu ra đúng là thách thức đối với
các mô hình, tập đoàn tổng công ty của các nước thuộc nhóm đang phát
triển hiện nay.
Do từ năm 2006, chúng ta là thành viên của WTO nên mọi hỗ trợ của Nhà
nước đều bị hạn chế. Theo quan điểm của tôi, nếu chỉ để các thành phần
kinh tế khác phát triển và xây dựng tập đoàn thì sẽ không cạnh tranh
được với các doanh nghiệp nước ngoài. Vì vậy Nhà nước phải trực tiếp
đầu tư, tức là thực hiện trách nhiệm chủ sở hữu của mình chứ không phải
là trách nhiệm quản lý Nhà nước để phát triển kinh tế.
Khi các tập đoàn phát triển ổn định thì tiến hành xã hội hóa (cổ phần
hóa). Như vậy các doanh nghiệp của các thành phần kinh tế khác đỡ gặp
rủi ro khi tham gia vào thị trường.
Lê Vân Ly - Nữ 35 tuổi - Giảng viên:
Thưa ông Nguyễn Đức Kiên, trong bài trả lời phỏng vấn cùng chủ đề này
trên VnEconomy, ông cho rằng, thời gian qua có nhiều cái nhìn sai lệch
ở cả đại biểu quốc hội và dư luận xã hội khi đánh giá về tập đoàn. Ông
khá lạc quan với nhận định các tập đoàn kinh tế có 60% thành công và
40% khuyết điểm. Và ông cũng cho rằng, hiệu quả hoạt động của tập đoàn
thấp chứng tỏ đã phát triển đúng hướng do phải làm nhiệm vụ đi trước,
mở đường, chịu rủi ro. Vậy theo ông, nhiệm vụ đi trước, mở đường và đạt
hiệu quả thấp của các tập đoàn sẽ kéo dài đến bao giờ? Và như thế, ai
là người chịu trách nhiệm khi các tập đoàn mở đường nhầm, sang lĩnh vực
không phải thế mạnh, như việc đầu tư tài chính kém hiệu quả thời gian
qua?
Ông đưa ra vấn đề hạn chế những khoản vay không cần thiết của Tập đoàn
Vinashin như một trong những hành động bắt đầu tái cơ cấu nền kinh tế.
Tuy nhiên, đang có nhiều ý kiến về cách xử lý vấn đề tại Vinashin, ví
dụ việc cho phép Vinashin thoái vốn tại Tập đoàn Bảo Việt. Thưa ông,
nếu chúng ta tái cấu trúc kinh tế theo cách xử lý hậu quả (và nhiều ý
kiến cho rằng phi kinh tế) như vậy, liệu rằng có phù hợp quy luật và
công bằng với các thành phần kinh tế khác hay không? Thay vì chúng ta
chịu nhìn nhận và xử lý tận gốc vấn đề là Chính phủ thiếu cơ chế chính
sách tài chính phù hợp để quản lý các tập đoàn kinh tế, từ đó có cách
xử lý chiến lược hơn.
Ông Nguyễn Đức Kiên:
Xin chào bạn, cảm ơn đã đặt những câu hỏi khó.
Khi chủ sở hữu quyết định phương án đầu tư có tính rủi ro cao thì trong
quyết định đó đã bao hàm yếu tố nếu rủi ro cao bao gồm cả yếu tố thất
bại nên nếu thất bại thì chủ sở hữu phải chịu.
Tránh trường hợp một mình chủ sở hữu phải chịu, người ta xây dựng quỹ
đầu tư rủi ro. Các doanh nghiệp khi tiến hành đầu tư trong các lĩnh vực
rủi ro thì có thể mua bảo hiểm của quỹ này.
Le Ha - Nữ 36 tuổi - Chuyên viên phân tích:
Xin hỏi ông Kiên, theo ông, hệ thống chính sách pháp luật hiện hành đã
đủ để tập đoàn hoạt động và phát triển? nếu có bất cập thì nằm ở khâu
nào?
Ông Nguyễn Đức Kiên:
Chào bạn, cuộc sống luôn luôn thay đổi, vì vậy hệ thống luật pháp cũng
phải thường xuyên thay đổi để phù hợp với tình hình. Ở các nước có nền
kinh tế phát triển, việc xây dựng chính sách, luật pháp vẫn là nhiệm vụ
trọng tâm của Quốc hội.
Ở nước ta do đang hình thành một mô hình kinh tế mới nên nhìn chung hệ
thống văn bản pháp quy chỉ tạm gọi là xây dựng được hành lang cho các
doanh nghiệp hoạt động. Còn nhiều vấn đề chi tiết cần tiếp tục được
luật hóa để tránh việc cùng một quy định có nhiều cách hiểu khác nhau.
Bất cập nhất, theo tôi là chưa quy định rõ việc gắn trách nhiệm cá
nhân, trách nhiệm tập thể với các chủ thể đại diện quyền chủ sở hữu tại
doanh nghiệp.
Phạm Hưng Hùng - Nam 40 tuổi - Nghiên cứu sinh Đại học Birmingham:
Xin hỏi ông Nguyễn Đức Kiên: Ông đã có một bài viết rất hay về “Một
cách nhìn khác về tập đoàn kinh tế”. Ngoài sự ủng hộ về cơ chế, chính
sách của nhà nước, sự chỉ đạo đổi mới trong công tác điều hành của tập
đoàn kinh tế để dần tối ưu hóa mô hình hoạt động, theo ông chúng ta có
nên kêu gọi nhân dân tích cực ủng hộ các tập đoàn hay không? Và nếu có
thì làm bằng cách nào? Bởi chính những đánh giá phê bình một cách mạnh
mẽ về các tập đoàn (ở góc độ phát triển thì những ý kiến phê bình là
rất tốt, để các tập đoàn dần hoàn thiện mình hơn) cũng tạo ra một sự ác
cảm của người dân với các tập đoàn.
Ông Nguyễn Đức Kiên:
Câu hỏi này của bạn hơi thiên về vấn đề tâm lý của người quản lý và vấn đề PR của doanh nghiệp.
Đúng như phát hiện của bạn, nếu chỉ đưa một chiều ý kiến phê bình mà
không nêu các thành quả, đóng góp của các tập đoàn sẽ tạo ra tâm lý
không tin tưởng doanh nghiệp Việt Nam.
Tôi hy vọng rằng, với cương vị của bạn hiện nay, bạn có thể góp phần to
lớn vào việc thực hiện đề xuất của bạn. Làm cho mọi người có cái nhìn
đa chiều, đúng mực về tập đoàn, theo tôi cũng là trách nhiệm chung của
các nhà báo và các nhà kinh tế.
Nguyễn Chiến Thắng - Nam 34 tuổi - Phóng viên:
Thưa ông Sự, trước đây, Tổng giám đốc Petro Vietnam có nói, Petro
Vietnam đầu tư ngoài ngành nhiều là do lợi nhuận thu được khá lớn nên
phải mang tiền đi kinh doanh. Vậy, điều đó hiện nay có còn diễn ra ở
Petro Vietnam nữa không? Lĩnh vực mà các ông nhắm tới là gì?
Ông Nguyễn Ngọc Sự:
Petro Vietnam là một tập đoàn kinh tế lớn nhất của Việt Nam, với định
hướng chiến lược phát triển đa sở hữu, đa ngành nghề và đa sản phẩm,
đồng thời đảm bảo giữ vai trò chủ đạo của nền kinh tế, tập đoàn đã mở
rộng lĩnh vực hoạt động của mình sang những lĩnh vực có thể đầu tư nhằm
hai mục tiêu chính là mục tiêu lợi nhuận và là một công cụ phục vụ điều
tiếtnền kinh tế vĩ mô.
Tuy nhiên sau một thời gian hoạt động dobiếnđộng củakinh tế thế giới vầ
trong nước, tập đoàn đang cơ cấu lại tất cả các đơn vị của mình và
chúng tôi tậptrung vào một số lĩnh vực chính, gồm tìm kiếm thăm dò khai
thác chế biến phân phối dầu khí, sản xuất cung cấp phân bón cho đất
nước, sản xuất điện...
Tập đoàn đang đẩy mạnh các hoạt động đầu tư sang nước ngoài để khai
thác nguồn dầu khi của các nước khác manng nguồn lợi về cho đất nước.
Le Hoang Giang - Nam 33 tuổi:
Xin hỏi ông Nguyễn Đức Kiên: Thưa ông, một trong những điều nhiều vị
đại biểu hay than phiền trên diễn đàn Quốc hội là sự đầu tư dàn trải,
nhất là đầu tư vào chứng khoán, bất động sản… của các tập đoàn kinh tế
Nhà nước. Quan điểm cá nhân ông về điều này thế nào?
Ông Nguyễn Đức Kiên:
Chào bạn, về câu hỏi của bạn tôi xin trả lời như sau.
Tính đến cuối năm 2008 tổng số vốn đầu tư vào các lĩnh vực tài chính
của các tập đoàn, tổng công ty là 21.164 tỷ đồng trên tổng số 485.644
tỷ đồng. Theo bạn thế là ít hay nhiều?
Nguyễn Minh Hóa - Nam 33 tuổi - Nhân viên kinh doanh:
Theo các ông, tập đoàn kinh tế nào hiện nay được coi là mạnh nhất tại
Việt Nam hiện nay? Một tập đoàn kinh tế như thế nào được coi là mạnh?
Ông Nguyễn Đức Kiên:
Tùy theo việc xây dựng tiêu chí đánh giá mà chúng ta có thể phân loại
được tập đoàn mạnh. Nếu xét về mặt sử dụng lao động thì Tập đoàn Dệt
may hiện nay là tập đoàn lớn nhất.
Nếu xét về đóng góp cho ngân sách Nhà nước thì Tập đoàn Dầu khí là mạnh
nhất. Xét về mặt quan hệ quốc tế thì Tập đoàn Bưu chính Viễn thông là
có nhiều mối quan hệ nhất...
Một tập đoàn kinh tế mạnh khi hoàn thành nhiệm vụ của chủ sỡ hữu giao,
có khả năng liên kết với các doanh nghiệp khác trong ngành để thực hiện
nhiệm vụ chính trị và xã hội và có lợi nhuận hợp lý.
Vu Van Quan - Nam 45 tuổi - Bạn đọc:
Xin chào lãnh đạo Petro Vietnam. Cá nhân tôi nhận thấy Petro Vietnam
đang nắm một lợi thế, đúng hơn là uy thế, khi hoạt động "độc quyền"
trong một lĩnh vực tối quan trọng của nền kinh tế. Điều này cũng tạo
thế mạnh cho Tập đoàn, nhưng đến khi nào thì Petro có thể hoàn toàn tự
chủ 100% công nghệ, nhân lực... để không chuyển nguồn lợi ra bên ngoài
(qua liên doanh) như hiện nay?
Ông Nguyễn Ngọc Sự:
Petro Vietnam là một doanh nghiệp hoạt động trong lĩnh vực dầu khí.
Đây là một lĩnh vực mang tính độc quyền cao, tập đoàn được Chính phủ
giao đảm nhiệm hai vai trò, một là thay mặt cho nước chủ nhà quản lý
tham gia các hoạt động dầu khí, hai là tham gia với tư cách một nhà đầu
tư.
Đặc thù của hoạt động tìm kiếm thăm dò khai thác dầu khí là hoạt động
có nhu cầu đầu tư rất lớn đồng thời rủi ro trong kinh doanh cũng rất
cao. Trên thế giới tất cả các công ty hoạt động trong lĩnh vực dầu khí
đều theo hướng chia sẻ rủi ro với các nước khác. Vì vậy thông thường
người ta phải thực hiện theo hướng hợp tác với nhiều đối tác khác nhau
để cùng hoạt động. Mặt khác cũng qua hoạt động hợp tác đó sẽ thu hút
nguồn vốn đầu tư nước ngoài.
Trong quá trình hợp tác với các công ty nước ngoài, Petro Vietnam triển
khai rất tích cực đào tào cán bộ, tiếp quản các công nghệ mới thông qua
các hợp đồng hợp tác với nước ngoài. Cho đến nay đội ngũ cán bộ của
Petro Vietnam đã đạt được trình độ khá cao và cũng đã tự mình đầu tư
vào một số mỏ trong nước và nước ngoài. Tuy nhiên để có thể thúc đẩy
được tiến trình này còn phụ thuộc vào nhiều yếu tố như vốn và công
nghệ, con người.
Trong chiến lược phát triển, chúng tôi đang cố gắng phấn đấu để phát
triển Petro Vietnam thành một tập đoàn dầu khí có tầm cỡ tương đương
với các tập đoàn dầu khí lớn trên khu vực.
Hoàng Lan - Nữ 28 tuổi:
Chủ đề buổi giao lưu nói về "con đường phía trước". Vậy xin hỏi các đại
biểu là phía trước của mô hình tập đoàn kinh tế, của các tập đoàn cụ
thể là gì, kỳ vọng, khó khăn, thuận lợi và cả những cam kết nữa? Trân
trọng cảm ơn.
Ông Nguyễn Đức Kiên:
Cảm ơn bạn đã quan tâm đến chủ đề của cuộc giao lưu này. Như bạn đã nêu
ở câu hỏi, "con đường phía trước" là kỳ vọng của không chỉ riêng các
phóng viên và nhóm diễn giả đang giao lưu trực tuyến với bạn đọc, mà
còn là cả nhiệm vụ đất nước giao cho các tập đoàn, tổng công ty trong
lĩnh vực phát triển kinh tế, đảm bảo nâng cao đời sống của nhân dân.
Trong quá trình xây dựng và hoạt động, chúng ta có những bỡ ngỡ nhất
định, vì vậy những bước đi trong thời gian vừa qua luôn thận trọng để
hạn chế đến mức thấp nhất những thiệt hại có thể xảy ra.
Các cơ quan lập pháp và hoạch định chính sách vĩ mô sẽ tiếp tục hoàn
thiện các cơ chế chính sách về quản lý tập đoàn và tổng công ty trong
lĩnh vực thực hiện nhiệm vụ chính trị và hiệu quả kinh doanh.
Lê Văn Thái - Nam 42 tuổi:
Xin hỏi các diễn giả và thực tế từ đại diện các tập đoàn tham gia giao
lưu: Giữa mô hình tập đoàn và tổng công ty có những gì khác biệt? Lợi
ích khi đi theo mô hình tập đoàn là gì? Đâu là những điều kiện để áp
dụng và đi theo mô hình này? Xin cám ơn.
Ông Nguyễn Đức Kiên:
Trên thế giới có nhiều mô hình tập đoàn khác nhau. Nhưng hiện nay chúng
ta đang thí điểm xây dựng 8 tập đoàn theo mô hình công ty mẹ, công ty
con. Lợi thế của mô hình này là thể hiện quan hệ giữa công ty mẹ và
công ty con theo trách nhiệm về vốn mà không phải trách nhiệm hành
chính.
Nâng cao trách nhiệm của người đại diện chủ sở hữu, đại diện vốn tại
các công ty con, thực hiện mô hình công ty hóa các doanh nghiệp Nhà
nước (tức là chuyển doanh nghiệp Nhà nước hạch toán theo nền kinh tế
thị trường, giá trị hóa các hoạt động để thực hiện nhiệm vụ chính trị
và xã hội do chủ sở hữu giao).
Một ưu điểm khác là rút ngắn thời gian ra quyết định ở các công ty con,
phù hợp với diễn biến của thị trường, làm cho các công ty ứng phó nhanh
hơn, không mất thời gian trong việc xin ý kiến. Điều kiện để áp dụng mô
hình là khi doanh nghiệp hoạt động trên nhiều ngành, nhiều địa phương
khác nhau cần phải nâng cao chất lượng quản lý và hiệu quả đầu tư.
Bảo Anh - Nữ 31 tuổi - Kế toán:
Quý vị nhìn nhận thế nào về vai trò của tập đoàn kinh tế. Có thực sự là
những “anh cả” trong phát triển kinh tế của đất nước và họ đã đảm bảo
được vai trò "anh cả" trong sản xuất kinh doanh, hỗ trợ nền kinh tế
phát triển chưa?
Ông Vũ Đức Giang:
Cảm ơn câu hỏi của bạn.
Riêng với Tập đoàn Dệt may Việt Nam nói, tôi khẳng định rằng Tập đoàn
là đơn vị chủ đạo của ngành dệt may ở Việt Nam. Trong những năm vừa
qua, chúng tôi đã đạt được 4 mục tiêu chủ đạo:
Thứ nhất, Tập đoàn Dệt may đã đầu tư vào những lĩnh vực cốt lõi như
vải, nguyên phụ liệu, đào tạo nguồn lực, phát triển thị trường trong và
ngoài nước. Trong đó nhiều lĩnh vực khu vực tư nhân không có đủ tiềm
lực để đầu tư được.
Thứ hai, chúng tôi kêu gọi các nhà đầu tư nước ngoài đầu tư vào lĩnh vực cốt lõi của ngành dệt may Việt Nam.
Thứ ba, chúng tôi khẳng định là một trong những tập đoàn đi đầu trong việc sản xuất kinh doanh có tính bền vững và hiệu quả.
Thứ tư, chúng tôi giải quyết lao động ổn định trong ngành công nghiệp
dệt may. Hiện nay Tập đoàn đã có 116.000 lao động với tổng mức lương
hàng năm lên tới trên 3.000 tỷ đồng, thu nhập bình quân của người lao
động đạt 2,2 triệu đồng/tháng. Đây là nguồn thu nhập để lưu thông vào
đời sống và xã hội.
Trong khi đó, hiện nay toàn ngành dệt may có trên 2 triệu lao động với
thu nhập bình quân đạt 2 triệu đồng/tháng, tổng quỹ tiền lương đạt
khoảng 12.000 tỷ đồng/năm.
Hoàng Lan - Nữ 28 tuổi:
Chủ đề buổi giao lưu nói về "con đường phía trước". Vậy xin hỏi các đại
biểu là phía trước của mô hình tập đoàn kinh tế, của các tập đoạn cụ
thể là gì, kỳ vọng, khó khăn, thuận lợi và cả những cam kết nữa? Trân
trọng cảm ơn.
Ông Nguyễn Ngọc Sự:
Các tập đoàn kinh tế của Việt Nam cũng chỉ là mới được thành lập, quy
mô và phạm vi hoạt động còn hạn chế, kể cả về thị trường, vốn, con
người, công nghệ, sản phẩm và khả năng quản lý điều hành.
Với quy mô của các tập đoàn kinh tế hiện nay so với các tập đoàn kinh
tế trên thế giới còn rất nhỏ bé. Các tập đoàn kinh tế của Việt Nam hiện
tại đang gặp một số khó khăn nhất định như khó khăn khi thiếu các quy
định cụ thể về cơ chế cho tập đoàn hoạt động, khó khăn về vốn, khó khăn
về thị trường dẫn đến sức cạnh tranh của các tập đoàn chưa cao.
Trong quá trình phát triển, tập đoàn dầu khí luôn kỳ vọng phát triển
trở thành một tập đoàn kinh tế lớn của khu vực, hoạt động không chỉ
trong nước mà còn có sức cạnh tranh ra nước ngoài.
Chúng tôi kỳ vọng Chính phủ sẽ sớm có những biện pháp tháo gỡ khó khăn
và đưa ra một cơ chế quản lý điều hành phù hợp thông thoáng để tạo điều
kiện cho các tập đoàn phát triển. Chúng tôi cũng cam kết luôn luôn phấn
đấu giữ vững vị trí là một trong những tập đoàn chủ đạo của nền kinh tế
và phấn đấu đến 2015 có những mặt hoạt động ngang tầm với những tập
đoàn kinh tế lớn trong khu vực.
Nguyen Dang Truyen - Nam 41 tuổi - EVN:
Xin hỏi ông Kiên, trong một bài trả lời phỏng báo chí vấn gần đây, ông
có nhận định khuyến điểm lớn nhất của tập đoàn kinh tế là định hướng
phát triển không giữ được như ban đầu, do chủ sở hữu thực hiện không
hết vai trò của mình. Ông có thể nói rõ hơn điều này?
Ông Nguyễn Đức Kiên:
Chào bạn, khi thành lập doanh nghiệp thì bao giờ chủ sở hữu cũng đặt ra
những nhiệm vụ cụ thể về sử dụng nhân lực, vốn đầu tư, định hướng kinh
doanh (gồm cả thị trường và sản phẩm)... Bên cạnh đó chủ đầu tư cũng
phải có cơ chế kiểm soát nhất định để giữ vững mục tiêu đề ra của mình.
Trong thời gian vừa qua, khi thị trường xuất hiện nhiều yếu tố đầu cơ
với tỷ suất lợi nhuận rất cao thì một số tập đoàn đã chuyển một phần
nhỏ vốn đầu tư vào lĩnh vực này để nâng cao lợi nhuận. Trước sự việc đó
chủ sở hữu đó đã không kịp thời kiểm soát việc chuyển vốn và bố trí một
lực lượng nhân lực phù hợp với hình thức đầu tư mới này.
Chính vì vậy, khi thị trường có biến động thì hiệu quả đầu tư không cao
như dự kiến ban đầu, tạo ra dư luận không tốt trong xã hội, ảnh hưởng
đến thương hiệu của nhiều doanh nghiệp đã mất rất nhiều công sức và
tiền của xây dựng từ hàng chục năm nay.
Nguyễn Viết Bình - Nam 35 tuổi - Nhà đầu tư:
Xin chào lãnh đạo Tập đoàn Petro Vietnam. Hiện nay, Petro Vietnam đang
là đầu mối cung hàng cho thị trường chứng khoán, toàn những doanh
nghiệp lớn mà chúng tôi quen gọi là "họ PV". Xin hỏi, sắp tới định
hướng tạo hàng cho thị trường niêm yết của Tập đoàn như thế nào, bao
giờ thì cổ phần hóa hoàn toàn? Trân trọng cám ơn.
Ông Nguyễn Ngọc Sự:
Thực hiện chỉ đạo của Chính phủ về công tác đổi mới doanh nghiệp, Petro
Vietnam đang là một doanh nghiệp dẫn đầu trong cổ phần hóa các đơn vị
thành viên của mình.
Tính đến nay Petro Vietnam đã cơ bản hoàn thành kế hoạch cổ phần hóa
doanh nghiệp đã được giao. Các doanh nghiệp của dầu khí thường có vốn
lớn, do đó khối lượng cổ phiếu niêm yết trên thị trường lớn hơn nhiều
các doanh nghiệp khác.
Tùy thuộc theo kế hoạch đầu tư và kinh doanh của các doanh nghiệp này
sẽ phát sinh các yêu cầu phải huy động thêm vốn, do vậy chúng tôi sẽ
xem xét việc tăng vốn điều lệ thông qua phát hành thêm cổ phiếu ra thị
trường, riêng đối với công ty mẹ Petro Vietnam, vì là một doanh nghiệp
chủ đạo trong nền kinh tế và hoạt động liên quan đến khai thác tài
nguyên của đất nước, do đó Chính phủ chưa có chủ trương cổ phần hóa
Petro Vietnam.
Nam Anh - Nam 58 tuổi - Nghiên cứu:
Việc thành lập tập đoàn là tất yếu, các quốc gia hùng mạnh khi sở hữu
những tập đoàn hùng mạnh và đó chính là mục tiêu của chúng ta, là sứ
mệnh của tập đoàn. Các tập đoàn hùng mạnh ở các nước đã có cả một quá
trình bề dày để trưởng thành, còn các tập đoàn của chúng ta có thể nói
còn đang "chập chững". Theo tôi, hoạt động đa ngành không phải là sai,
có điều là đến ngưỡng nào thì mở rộng phát triển thành "đa ngành", ý
kiến các diễn giả ra sao?
Ông Nguyễn Ngọc Sự:
Khi xây dựng phát triển các tập đoàn kinh tế theo hướng đa dạng ngành
nghề là tất yếu. Tuy nhiên, cần phải hiểu và xác định tiêu chuẩn như
thế nào để xứng đáng với tên gọi tập đoàn kinh tế.
Hiện nay các tập đoàn kinh tế của Việt Nam có quy mô hoạt động nhỏ và
vốn cũng nhỏ, do đó cũng chỉ đủ đáp ứng các nhu cầu sản xuất kinh doanh
chính của mình. Nếu hoạt động đa ngành nghề trong điều kiện như vậy thì
sẽ gặp nhiều rủi ro, vì vậy quan điểm cá nhân tôi cho rằng cần phải có
tiêu chí xác định như thế nào mới gọi là tập đoàn kinh tế, các tiêu chí
đó phải liên quan đến quy mô hoạt động, đội ngũ cán bộ, độ lớn của vốn
kinh doanh, thương hiệu và cả khả năng quản lý điều hành.
Vấn đề này chưa được nghiên cứu một cách thấu đáo, khi có tiêu chí đánh
giá đó thì cũng nên để các tập đoàn chủ động tự chịu trách nhiệm về các
hoạt động kinh doanh của mình.
Ông Phạm Tuấn Anh:
Một trong những đặc điểm của tập đoàn kinh tế là kinh doanh đa ngành, đa
lĩnh vực. Các tổng công ty nhà nước trước đây chủ yếu thực hiện kinh
doanh trong những chuyên ngành hẹp, có kinh doanh ngành nghề khác nhưng
không đáng kể.
Khi chuyển sang mô hình tập đoàn kinh tế, ngoài lĩnh vực kinh doanh
chính, hầu hết các tập đoàn đều mở rộng kinh doanh sang các lĩnh vực
khác với mong muốn trở thành các tập đoàn kinh tế công nghiệp - thương
mại - tài chính - dịch vụ.
Việc mở rộng kinh doanh đa ngành giúp cho các tập đoàn khai thác tối đa
các nguồn lực, thế mạnh hiện có để có thể tối đa hóa lợi nhuận sản
xuất, kinh doanh, đồng thời tạo ra cơ chế san sẻ rủi ro qua nhiều lĩnh
vực hoạt động.
Tuy nhiên, nếu không có sự cân nhắc, tính toán kỹ lưỡng trên cơ sở lợi
thế và điều kiện của mình, các tập đoàn dễ bị phân tán nguồn lực, không
tập trung nguồn lực cho chiến lược phát triển dài hạn ở những lĩnh vực
chính mà lại đầu tư vào những lĩnh vực không có kinh nghiệm, sở trường
dẫn đến không hiệu quả, thậm chí thua lỗ.
Trong thực tế đã có những khoản đầu từ không hiệu quả hoặc hiệu quả
thấp, thậm chí lỗ vốn từ những hoạt động kinh doanh vào những lĩnh vực
không liên quan đến ngành, nghề kinh doanh chính ở một vài tập đoàn
kinh tế.
Để đảm bảo các tập đoàn kinh tế nhà nước tập trung vào các lĩnh vực
kinh doanh chính đã được nhà nước giao, Chính phủ đã quy định công ty
mẹ của các tập đoàn kinh tế nhà nước và các doanh nghiệp thành viên
được đăng ký những ngành nghề kinh doanh theo quy định của pháp luật
nhưng phải tập trung đầu tư và hoạt động kinh doanh trong các ngành
nghề kinh doanh chính và ngành nghề có liên quan đến ngành nghề chính
và chịu sự giám sát của nhà nước về việc đầu tư, tỷ lệ vốn đầu tư và
hiệu quả vốn đầu tư vào ngành, nghề kinh doanh chính, ngành nghề có
liên quan đến ngành nghề chính và ngành nghề không liên quan đến ngành
nghề chính.
Trường hợp công ty mẹ trực tiếp hoặc thông qua công ty con kinh doanh
các ngành, nghề không liên quan đến ngành nghề chính thì phải đảm bảo
hoàn thành nhiệm vụ kinh doanh chính, phải sử dụng hoạt động và kết quả
kinh doanh của các ngành nghề này để hỗ trợ, phát triển các ngành, nghề
kinh doanh chính.
Thủy Chung - Nữ 38 tuổi - Cán bộ quản lý:
Được biết trong năm 2009, Ủy ban Kinh tế của Quốc hội đã tổ chức giám
sát hoạt động của tập đoàn, ông Kiên có thể cho biết việc giám sát được
thực hiện thế nào và kết quả chủ yếu?
Ông Nguyễn Đức Kiên:
Chào bạn, cảm ơn bạn đã quan tâm đến hoạt động của Ủy ban Kinh tế. Theo
Luật Tổ chức Quốc hội thì giám sát là một hoạt động quan trọng của Quốc
hội và các cơ quan giúp việc cho Quốc hội.
Giám sát trong năm 2009 mà bạn hỏi là giám sát tối cao của Quốc hội nên
cũng được quy định ngay trong Luật. Tại kỳ họp thứ tư, tháng 11/2008
Quốc hội có nghị quyết về việc thành lập đoàn giám sát. Tháng 1/2009,
Ủy ban Thường vụ Quốc hội ra quyết định thành lập đoàn giám sát và mời
các cơ quan, tổ chức có liên quan tham gia, trong đó có Ủy ban Kinh tế.
Trong tháng 2 và 3, đoàn giám sát đã họp, xây dựng đề cương giám sát
gửi cho các bộ ngành địa phương, các tập đoàn. Và quý 2 đã giám sát
trực tiếp tại hai thành phố Hà Nội, Hồ Chí Minh và các tập đoàn, tổng
công ty trọng điểm. Tháng 7 và 8 đoàn giám sát nghiên cứu kết quả báo
cáo và làm việc với các bộ ngành liên quan để làm rõ những phát hiện
trong quá trình giám sát...
Kết quả giám sát đã được công bố trên các phương tiện thông tin đại
chúng từ mấy ngày hôm nay. Nhìn chung kết quả giám sát đã đưa ra 6
kiến nghị là hoàn thiện hệ thống chính sách pháp luật; phân định rõ
nhiệm vụ của chủ sở hữu; tách bạch nhiệm vụ quản lý Nhà nước và chức
năng đại diện vốn; chấn chỉnh và củng cố các tập đoàn gặp khó khăn; xây
dựng hệ thống kiểm tra việc sử dụng vốn tại doanh nghiệp. Và cuối cùng
là hoàn thiện về tổ chức và mô hình của tập đoàn.
Phạm Hưng Hùng - Nam 40 tuổi - Nghiên cứu sinh Đại học Birmingham:
Xin hỏi ông Vũ Đức Giang: Câu 1: Dệt may hiện là lĩnh vực đóng góp lớn
nhất cho kim ngạch xuất khẩu của Việt Nam (chỉ sau dầu thô và có thể
vượt dầu thô trong năm nay). Cũng như da giày, dệt may là ngành thâm
dụng lao động mà các nước mới tiến hành công nghiệp hóa đều đẩy mạnh
phát triển do có lợi thế về giá nhân công rẻ. Tuy nhiên, trước lộ trình
tăng lương cơ bản liên tiếp hiện nay, lợi thế đó dần mất đi, và thực tế
việc thiếu lao động ở các nhà máy đã và đang diễn ra ngày một nhiều
hơn. Xin ông cho biết Vinatex nói riêng và ngành dệt may nói chung đã
có những giải pháp gì để đối phó với vấn đề trên?
Câu 2: Xin ông vui lòng cho biết vai trò của Chính phủ và của Hiệp hội
Dệt may trong việc hỗ trợ doanh nghiệp tìm kiếm thị trường, thúc đẩy
xuất khẩu, cũng như một số biện pháp hỗ trợ mà Chính phủ có thể giúp
các doanh nghiệp dệt may trong điều kiện đã gia nhập WTO?
Ông Vũ Đức Giang:
Trước hết xin được cám ơn câu hỏi của bạn,
Từ năm 2009, tôi xin khẳng định ngành dệt may sẽ đứng đầu cả nước trong
kim ngạch xuất khẩu, riêng năm nay ước đạt trên 9 tỷ USD.
Tôi khẳng định trong bối cảnh hội nhập và cạnh tranh, chúng tôi không
đặt mục tiêu cạnh tranh bằng giá rẻ mà chúng tôi đặt lợi thế cạnh tranh
bằng chất lượng, bằng giá, bằng thời gian giao hàng và tuân thủ các
chuẩn mực mà các nước nhập khẩu đặt ra theo chuẩn mực của WTO.
Lộ trình tăng lương không ảnh hưởng nhiều đến phát triển của ngành bởi
vì chúng tôi tập trung phát triển công nghệ, thiết bị hiện đại và mô
hình quản lý Lean, nó giúp tăng năng suất lao động, tăng hiệu quả kinh
doanh.
Như tôi đã trả lời ở trên, mặt bằng thu nhập của người lao động trong
tập đoàn cao hơn mặt bằng chung của lao động trong toàn ngành dệt may.
Điều đấy cho thấy chúng tôi luôn chủ động nâng cao chất lượng nguồn lực
lao động.
Câu hỏi thứ hai tôi xin được trả lời như sau:
Hiệp hội Dệt may Việt Nam và Tập đoàn Dệt may Việt Nam đã thực hiện
định hướng chỉ đạo chiến lược của Chính phủ và Bộ Công Thương, hàng năm
chúng tôi tổ chức các đoàn xúc tiến thị trường xuất khẩu, trong đó
chúng tôi đặc biệt chú trọng nhiều thị trường lớn như thị trường Mỹ,
châu Âu, Nhật Bản và các châu Á, các nước Trung Đông, châu Phi và các
nước Đông Âu cũ.
Điều này đã khẳng định trong bối cảnh các thị trường truyền thống có
giảm đi nhưng chúng tôi đã tập trung các thị trường mới nên vẫn hoàn
thành mục tiêu đặt ra. Trong 10 tháng, toàn ngành đã xuất khẩu được 7,5
tỷ USD và năm nay tôi khẳng định sẽ đạt hơn 9 tỷ USD.
Chính phủ đã tạo điều kiện cho các doanh nghiệp về chi phí đào đạt
nguồn lực cho ngành dệt may Việt Nam. Bên cạnh đó, thông qua gói kích
cầu hỗ trợ lãi suất, chính sách đã tác động tích cực tới hoạt động sản
xuất kinh doanh của Tập đoàn.
Chính phủ cũng đã chỉ đạo các bộ ngành, cơ quan quản lý nhà nước trong
việc kiểm tra, giám sát, đánh giá chất lượng các sản phẩm nhập khẩu từ
nước ngoài vào Việt Nam nhằm bảo vệ quyền lợi người tiêu dùng trong
nước và tạo sự bình đẳng giữa các doanh nghiệp sản xuất trong nước theo
các điều khoản của WTO.
Nguyễn Ý Hương - Nữ 28 tuổi - Nhà đầu tư:
Xin chào lãnh đạo Tập đoàn Bảo Việt. Bảo Việt là tập đoàn nhà nước đầu
tiên cổ phần hóa và có đối tác chiến lược nước ngoài. Xin cho biết sự
khác biệt này tạo thuận lợi hay khó khăn, áp lực gì trong quá trình
hoạt động? Câu hỏi thứ hai, xin cho biết dự kiến kết quả kinh doanh năm
nay của Bảo Việt như thế nào? Xin cảm ơn.
Ông Phạm Khắc Dũng:
Cám ơn sự quan tâm của bạn về Tập đoàn Bảo Việt.
Thực hiện quyết định số 310/2005/QĐ-TTg ngày 28/11/2005 của Thủ tướng
Chính phủ về việc phê duyệt đề án cổ phần hóa Tổng công ty Bảo hiểm
Việt Nam và thí điểm thành lập Tập đoàn Tài chính – Bảo hiểm Bảo Việt,
ngày 26/12/2005, Bộ trưởng Bộ Tài chính đã ban hành Quyết định số
6504/QĐ-BTC về việc cổ phần hóa Tổng công ty Bảo hiểm Việt Nam và thí
điểm thành lập Tập đoàn Tài chính - Bảo hiểm Bảo Việt.
Sau khi thực hiện bán đấu giá cổ phần lần đầu ra công chúng ngày
31/05/2007, căn cứ vào kết quả bán đấu giá và lựa chọn cổ đông chiến
lược sau cổ phần hóa, Bảo Việt đã lựa chọn được đối tác chiến lược HSBC
Insurance đáp ứng đủ các tiêu chí: có lĩnh vực hoạt động tương đồng với
Bảo Việt, có năng lực tài chính, có thương hiệu mạnh và đã đầu tư thành
công trong khu vực.
Nên khi đầu tư vào Bảo Việt, HSBC sẽ giúp cho Bảo Việt trong việc tái
cơ cấu lại doanh nghiệp, mở rộng cung cấp dịch vụ bảo hiểm, đổi mới
quản trị doanh nghiệp theo hướng: tiếp cận dần với các thông lệ và
chuẩn mực quốc tế trong quản trị doanh nghiệp, thực hiện quá trình
chuyển giao công nghệ trong nhiều lĩnh vực gồm phát triển sản phẩm,
quản lý đại lý, phát triển kênh phân phối, công nghệ tin học nhằm đem
lại lợi ích cao nhất cho cổ đông và cho doanh nghiệp.
Nguyen Huu Nguyen - Nam 30 tuổi - Kỹ sư:
Chính phủ đánh giá thế nào về tính hiệu quả của các tập đoàn kinh tế
sau gần 5 năm thí điểm? Đâu là những kinh nghiệm cần rút ra? Đâu là
những giá trị cần phát huy? Xin cảm ơn.
Ông Phạm Tuấn Anh:
Chào bạn, sau gần 5 năm thí điểm mô hình tập đoàn kinh tế nhà nước, bước đầu có thể rút ra những kết quả cơ bản như sau:
- Tập trung nguồn lực để hình thành được những tổ hợp doanh nghiệp quy
mô lớn trong một số ngành, lĩnh vực then chốt cần phát triển, góp phần
dẫn dắt chuyển đổi cơ cấu kinh tế theo hướng hiện đại, nâng cao năng
lực cạnh tranh, đổi mới công nghệ, năng suất lao động và khả năng hội
nhập kinh tế quốc tế.
- Giữ vai trò bảo đảm các cân đối lớn trong nền kinh tế quốc dân; từng
bước ứng dụng công nghệ cao, tạo động lực phát triển cho các ngành,
lĩnh vực khác và toàn bộ nền kinh tế. Góp phần bảo đảm an sinh xã hội.
- Đổi mới quản trị trong tập đoàn thông qua việc chuyển đổi tổng công
ty nhà nước trước đây sang hoạt động theo mô hình công ty mẹ - công ty
con, theo đó chuyển quan hệ trong tập đoàn từ cơ chế hành chính, giao
vốn là chủ yếu sang liên kết bằng lợi ích kinh tế, công ty mẹ quan hệ
với công ty con với địa vị là nhà đầu tư thay cho địa vị là doanh
nghiệp cấp trên.
- Mở rộng đầu tư phát triển với sự tham gia rộng rãi của các thành phần
kinh tế khác thông qua việc cổ phần hóa đa số các doanh nghiệp thành
viên và tập đoàn tham gia đầu tư góp vốn với các thành phần kinh tế
khác hình thành thêm nhiều công ty thành viên mới để thông qua đó phát
triển kinh doanh đa ngành, đồng thời thu hút thêm vốn, kinh nghiệm quản
lý và các nguồn lực khác của các thành phần kinh tế để đầu tư, phát
triển và đổi mới phương thức quản trị doanh nghiệp theo hướng hiện đại,
phù hợp với cơ chế thị trường.
- Qua thí điểm, các tập đoàn cũng rút ra những kinh nghiệm để có cơ sở
thực tiễn đánh giá về những vấn đề trước đây còn có nhiều ý kiến khác
nhau. Ví dụ như: việc công ty mẹ nên thực hiện đồng thời cả hai chức
năng sản xuất kinh doanh và đầu tư tài chính hay chỉ thực hiện chức
năng đầu tư tài chính, Tập đoàn Dầu khí qua thực tế thí điểm đã nhận
thấy trong điều kiện thực tế hiện nay, công ty mẹ tập đoàn nên thực
hiện đồng thời cả hai chức năng là sản xuất kinh doanh và đầu tư tài
chính vì nếu không trực tiếp sán xuất kinh doanh công ty mẹ sẽ mất đi
vai trò chi phối các công ty thành viên trong tập đoàn về công nghệ,
chiên lược sản xuất.
Một vấn đề nữa là, trong tập đoàn, công ty mẹ có nên góp vốn với công
ty con hoặc công ty liên kết để hình thành doanh nghiệp mới hay không?
Thực tiễn thí điểm cũng cho thấy việc này làm cho cơ cấu sở hữu trong
tập đoàn trở nên phức tạp, các chủ nợ và cổ đông rất khó để giám sát và
đánh giá hiệu quả hoạt động đầu tư. Do đó, trong điều kiện hiện nay,
chưa nên cho phép đầu tư theo hình thức này.
- Để tạo điều kiện cho các tập đoàn kinh tế phát triển, cần có hành
lang pháp lý phù hợp, trong đó có những quy định nâng cao quyền tự chủ,
tự chịu trách nhiệm cho tập đoàn kinh tế. Tuy nhiên, các tập đoàn kinh
tế Nhà nước đang nắm giữ các nguồn lực quan trọng của quốc gia , sự
phát triển của các tập đoàn kinh tế có ảnh hưởng không nhỏ tới sự phát
triển kinh tế - xã hội của đất nước. Do đó, bên cạnh việc đẩy mạnh giao
quyền tự chủ, tự chịu trách nhiệm cho các tập đoàn kinh tế trong hoạt
động sản xuất kinh doanh thì việc quản lý, giám sát và đánh giá hiệu
quả hoạt động của nhà nước đối với các tập đoàn kinh tế cần được coi
trọng.
- Thực tiễn chỉ đạo việc thí điểm mô hình tập đoàn kinh tế nhà nước
trong thời gian qua cũng góp phần giúp cho Chính phủ hoàn thiện quy
định pháp luật về mô hình này. Ngày 5/11/2009, Thủ tướng Chính phủ đã
ký ban hành Nghị định số 101/2009/NĐ-CP về việc thí điểm thành lập, tổ
chức hoạt động và quản lý đối với tập đoàn kinh tế nhà nước.
Thúy Liên - Nữ 26 tuổi - Nhân viên văn phòng:
Sự hấp dẫn của lợi nhuận chính là yếu tố hút các tập đoàn. Vây nếu
trong một lĩnh vực không còn sức hấp dẫn của lợi nhuận mà lại thuộc
ngành nghề chính của mình thì yếu tố gì sẽ ràng buộc các tập đoàn?
Ông Nguyễn Ngọc Sự:
Tập đoàn kinh tế là một trong những công cụ điều tiết kinh tế vĩ mô,
bên cạnh mục tiêu lợi nhuận, tập đoàn kinh tế còn có vai trò và sứ mệnh
to lớn là đảm bảo nền kinh tế vĩ mô. Thông thường lĩnh vực kinh doanh
chính không đem lại lợi nhuận thì các doanh nghiệp nói chung và tập
đoàn kinh tế nói riêng phải xem xét lại hoạt động kinh doanh chính đó,
thậm chí phải thay đổi ngành nghề kinh doanh chính.
Tuy nhiên tập đoàn kinh tế còn có vai trò thứ hai là công cụ ổn định
kinh tế vĩ mô, do đó cũng phải xem xét đến khía cạnh mở rộng các hoạt
động khác mà vẫn phải duy trì các hoạt động kinh doanh chính đó vì mục
tiêu lớn hơn là ổn định nền kinh tế vĩ mô. Tức là tập đoàn kinh tế phải
dám hi sinh mục tiêu riêng vì mục đích chung.
Bùi Thanh Lam - Nam 33 tuổi - Luật sư:
Theo Dự thảo về Nghị định Tập đoàn kinh tế Nhà nước và hiện tại có một
số tập đoàn kinh tế nhà nước được thành lập thì đều ghi nhận là có tư
cách pháp nhân. Trong khi đó, Luật Doanh nghiệp 2005, Nghị định số 139
quy định tập đoàn kinh tế không có tư cách pháp nhân. Qua nghiên cứu mô
hình tập đoàn kinh tế của một số nước thì tôi tán đồng quan điểm này.
Quan điểm của các ông về vấn đề này như thế nào? Xin cảm ơn các ông!
Ông Phạm Tuấn Anh:
Tập đoàn kinh tế là một nhóm các công ty có quy mô lớn, liên kết dưới
hình thức công ty mẹ - công ty con và các hình thức khác tạo thành tổ
hợp các doanh nghiệp có gắn bó chặt chẽ và lâu dài với nhau về lợi ích
kinh tế, công nghệ, thị trường và các dịch vụ kinh doanh khác.
Tổ hợp doanh nghiệp này không đủ các điều kiện theo quy định của Luật
Dân sự để trở thành tổ chức có tư cách pháp nhân (có vốn, tài sản độc
lập; có cơ cấu tổ chức chặt chẽ; được thành lập hoặc cho phép thành lập
hoặc công nhận thành lập bởi cơ quan có thẩm quyền; nhân danh mình một
cách độc lập trong các quan hệ kinh tế, dân sự), chỉ có công ty mẹ và
các doanh nghiệp thành viên có tư cách pháp nhân, có vốn và tài sản
riêng.
Thủy Chung - Nữ 38 tuổi - Cán bộ quản lý:
Tại bài trả lời phỏng vấn trên VnEconomy gần đây, ông Kiên có đưa ra vấn đề hạn
chế những khoản vay không cần thiết của Tập đoàn Vinashin như một trong
những hành động bắt đầu tái cơ cấu nền kinh tế. Tuy nhiên, đang có
nhiều ý kiến về cách xử lý vấn đề tại Vinashin, ví dụ việc cho phép
Vinashin thoái vốn tại Tập đoàn Bảo Việt. Thưa ông, nếu chúng ta tái
cấu trúc kinh tế theo cách xử lý hậu quả (và nhiều ý kiến cho rằng phi
kinh tế) như vậy, liệu rằng có phù hợp quy luật và công bằng với các
thành phần kinh tế khác hay không? Thay vì chúng ta chịu nhìn nhận và
xử lý tận gốc vấn đề là Chính phủ thiếu cơ chế chính sách tài chính phù
hợp để quản lý các tập đoàn kinh tế, từ đó có cách xử lý chiến lược
hơn.
Ông Nguyễn Đức Kiên:
Chào bạn, việc tái cấu trúc lại nền kinh tế thì đúng là phải bắt đầu từ
tái cấu trúc doanh nghiệp như bạn đã nêu. Chuyện điều chuyển vốn của
Vinashin đứng về góc độ chủ sở hữu thì việc rút vốn đầu tư của tập đoàn
này đầu tư vào Bảo Việt chuyển về cho Tổng công ty Quản lý và đầu tư
vốn của Bộ Tài chính là việc làm bình thường của chủ sở hữu.
Sau khi rút vốn, Vinashin sẽ dồn lực vào công nghiệp đóng tàu và các
ngành công nghiệp phụ trợ khác như nhiệm vụ ban đầu khi quyết định
thành lập tập đoàn. Tái cấu trúc bao giờ cũng là xử lý các tồn tại của
mô hình trước để xây dựng một mô hình mới tiên tiến hơn, phù hợp với
thực tế của nền kinh tế.
Đây là một đặc thù của nền kinh tế thị trường. Còn chúng ta còn có định
hướng xã hội chủ nghĩa nên chúng ta chuyển vốn để giữ chỗ làm việc cho
hàng chục nghìn người lao động hiện đang làm việc ở Vinashin.
Vu Minh Hang - Nữ 40 tuổi - Kế toán:
Tôi đọc báo thấy có rất nhiều tin các ngân hàng tài trợ vốn hàng nghìn
tỷ đồng, liên tục và thường xuyên, cho các tập đoàn kinh tế. Trong khi
những doanh nghiệp nhỏ như chúng tôi tìm vốn rất khó khăn. Tất nhiên là
còn tùy thuộc vào uy tín, hiệu quả dự án..., nhưng có sự ưu ái rất rõ
trong việc này. Xin các diễn giả cho biết quan điểm về sự ưu ái đó.
Ông Nguyễn Ngọc Sự:
Các ngân hàng thương mại thực chất cũng là các doanh nghiệp kinh doanh
vì mục tiêu lợi nhuận và họ cũng phải tính toán các phương án kinh
doanh có lợi nhất và ít rủi ro nhất.
Đặc biệt họ lại kinh doanh trên lĩnh vực tiền tệ và tín dụng, vì vậy
khi cho vay họ phải lựa chọn các dự án khả thi và các khách hàng có uy
tín, các tập đoàn kinh tế thường có thương hiệu uy tín cao, các dự án
lớn và có hiệu quả, vì vậy đương nhiên các ngân hàng đương nhiên rất
quan tâm. đến các dự án của tập đoàn.
Tôi cho rằng, đây cũng là việc bình thường trong kinh doanh, vì vậy các
doanh nghiệp nhỏ muốn vay được tiền một cách dễ dàng thì họ cần phải
nâng cao uy tín của mình đầu tư những dự án và sản phẩm có sức hấp dẫn
trên thị trường.
Mặt khác, các doanh nghiệp dù lớn hay nhỏ thì cũng phải có những quan
hệ hai chiều giữa doanh nghiệp mình và các ngân hàng để đảm bảo hai bên
cùng có lợi một cách chính đáng, tức là các doanh nghiệp phải sử dụng
các dịch vụ như tiền gửi, bảo lãnh và các dịch vụ khác.
BVH - Nam 37 tuổi - Nhà đầu tư:
Tôi xin hỏi lãnh đạo Bảo Việt một câu thế này không biết có phù hợp với
nội dung buổi giao lưu không: từ tổng công ty nhà nước, 40 năm hoạt
động trong môi trường nhà nước, nay chuyển lên Tập đoàn, cổ phần hóa,
vậy có sự thay đổi nào trong quan điểm của lãnh đạo Tập đoàn Bảo Việt
giữa lợi ích của cán bộ nhân viên với lợi ích của các cổ đông bên
ngoài? Nhân thể, xin cho biết định hướng kinh doanh và triển vọng của
BVH trong năm 2010. Cảm ơn rất nhiều.
Ông Phạm Khắc Dũng:
Từ ngày 15/10/2007, Tập đoàn Bảo Việt hoạt động theo mô hình công ty cổ
phần. Ngay sau khi đi vào hoạt động theo mô hình mới, Tập đoàn xác định
đảm bảo quyền lợi và lợi ích của các cổ đông, cũng như không ngừng nâng
cao đời sống của cán bộ công nhân viên.
Định hướng phát triển của Bảo Việt trong giai đoạn 2010 – 2014 được xác
định là: “Phát triển thành định chế tài chính – bảo hiểm hàng đầu Việt
Nam, có tiềm lực tài chính vững mạnh, từng bước hội nhập vào thị trường
khu vực và thế giới dựa trên ba tru cột: dịch vụ bảo hiểm, ngân hàng và
đầu tư.”
Nguyễn Thúy Hoa - Nữ 36 tuổi:
Xin chào lãnh đạo Petro Vietnam, hiện nay trên thị trường niêm yết các
cổ phiếu thuộc họ PV có giá trị vốn hóa tương đối lớn có giá giao dịch
rất thấp so vối giá IPO. Vậy ông có thể cho biết tình trạng này có phản
ánh tương ứng với chất lượng quản lý và kết quả hoạt động sản xuất kinh
doanh của các doanh nghiệp đã cổ phần hóa thuộc Petro Vietnam?
Ông Nguyễn Ngọc Sự:
Cổ phiếu các doanh nghiệp Petro Vietnam được IPO vào thời điểm rất
thuận lợi, do đó thường có giá IPO cao hơn mệnh giá bình thường. Điều
này do ảnh hưởng của yếu tố tâm lý nhà đầu tư và thị trường, hiện nay
có một số cổ phiếu đang giao dịch với giá thấp hơn giá IPO, điều này
không đồng nghĩa với sự hoạt động kinh doanh kém hiệu quả của các doanh
nghiệp thuộc Petro Vietnam.
Theo tổng kết của chúng tôi, năm 2009, hầu hết các doanh nghiệp dầu khí
hoàn thành vượt mức kế hoạch về doanh thu và lợi nhuận, có những doanh
nghiệp chia cổ tức rất cao, tới 30-40%. Việc giá thấp hơn giá IPO hoàn
toàn do biến động của thị trường, khi IPO thì VN-Index đang ở mức
1.100-1.200 điểm và đến nay xấp xỉ 600 điểm, do vậy giá cổ phiếu xuống do
thị trường là phản ánh đúng quy luật của thị trường chứng khoán.
Nguyễn Hoàng Thu Uyên - Nữ 36 tuổi - Kiểm toán:
Những năm gần đây, một phong trào nở rộ là rất rất nhiều công ty bé
tẹo, hoặc có tiếng một chút đều rất tự tin đưa hai chữ "tập đoàn" vào
tên gọi. Theo các diễn giả, như thế có lạm phát không? Nên hiểu thế nào
và cần như thế nào để phù hợp với tên gọi đó?
Ông Nguyễn Đức Kiên:
Chào bạn, phát hiện của bạn rất hay. Nó chỉ rõ đặc tính sính thương
hiệu của một số người đang làm quản trị doanh nghiệp. Họ quan niệm tập
đoàn là mô hình phát triển cuối cùng của mô hình doanh nghiệp trong nền
kinh tế thị trường nên gọi tập đoàn "oai" hơn là công ty. Họ quên mất
một điều chất lượng sản phẩm và thị phần mới là những yếu tố quan trọng
trong việc hình thành tên gọi tập đoàn.
Không phải cứ chuyển tên gọi thành tập đoàn là doanh thu và lợi nhuận
của doanh nghiệp tự động tăng lên, nên bạn cứ yên tâm những người như
bạn sẽ không bao giờ bị nhầm. Hy vọng rằng trong các buổi "trà đạo" bạn
cũng chia sẻ những hiểu biết của mình cho đồng nghiệp, bạn bè. Như vậy,
các doanh nghiệp kia sẽ lại phải xin chuyển về tên ban đầu.
Nguyễn Thành Trung - Nam 39 tuổi - Viên chức:
Có nhiều mô hình tập đoàn kinh tế, theo thuật ngữ tiếng Anh, một số tập
đoàn sử dụng từ "Group" một số khác thì sử dụng từ "Holding". Vậy sự
khác nhau như thế nào về mô hình tập đoàn kinh tế khi có sự phân biệt
giữa hai từ này?
Ông Phạm Tuấn Anh:
Tập đoàn kinh tế là một nhóm các công ty có quy mô lớn, liên kết dưới
hình thức công ty mẹ - công ty con và các hình thức khác tạo thành tổ
hợp các doanh nghiệp có gắn bó chặt chẽ và lâu dài với nhau về lợi ích
kinh tế, công nghệ, thị trường và các dịch vụ kinh doanh khác; trong đó
có một công ty – gọi là công ty mẹ nắm giữ toàn bộ hoặc một phần vốn
của các công ty khác hoặc chi phối các công ty khác về thương hiệu, thị
trường, công nghệ, nghiên cứu, đào tạo,…theo thỏa thuận liên kết.
Từ “Group” chỉ tổ hợp các doanh nghiệp, còn từ "Holding" chỉ công ty mẹ
trong tập đoàn, là công ty nắm giữ toàn bộ hoặc một phần vốn ở các công
ty thành viên khác.
Đỗ Văn Định - Nam 33 tuổi - Công chức:
Tôi rất quan tâm đến hoạt động của các tập đoàn nhà nước, nhưng thực sự
chúng ta vẫn còn tồn tại 2 luồng suy nghĩ khác nhau: - Tập đoàn có nên
đa ngành nghề, đa lĩnh vực không? và không nên kinh doanh sang các lĩnh
vực không phải là thế mạnh của mình. Tôi ủng hộ luồng ý kiến cho rằng
tập đoàn kinh tế phải kinh doanh đa ngành. Chúng ta không có nên có
khái niệm rõ ràng về "thế mạnh" hay "tay trái" vì chúng ta là nước có
nền kinh tế đang chuyển đổi, đang hội nhập. Chúng ta phải hình thành
các tập đoàn đa ngành, có đủ sức cạnh tranh. Không nên suy nghi mãi mãi
tập đoàn chỉ kinh doanh "một mặt hàng đặc trưng".
Ông Nguyễn Đức Kiên:
Chào bạn, tôi hoàn toàn đồng ý với quan điểm của bạn. Xin phép được
dùng quan điểm của bạn để trả lời cho các độc giả khác có cùng quan tâm.
Cảm ơn bạn.
Trung Tuấn - Nam 51 tuổi - Nhà đầu tư:
Tôi là độc giả thường xuyên của VnEconomy. Chiều nay tôi vừa đọc bài
"Gần 50% tập đoàn, tổng công ty Nhà nước có hiệu quả kinh doanh thấp".
Vậy xin hỏi Tập đoàn của các diễn giả có nằm trong trường hợp trên
không? Trân trọng.
Ông Vũ Đức Giang:
Tôi xin khẳng định Tập đoàn Dệt may năm 2006, 2007, 2008 đều kinh doanh hiệu quả.
Tỷ suất lợi nhuận trên vốn của Tập đoàn năm 2006 đạt 7%, năm 2007 đạt
11,42% và năm 2008 đạt 13,5% và dự kiến con số này năm 2009 ước đạt
khoảng 13%.
Ông Phạm Khắc Dũng:
Chào bạn, Tập đoàn Bảo Việt đã thực hiện tốt các chỉ tiêu hoạt động kinh doanh do Đại hội đồng cổ đông giao năm 2009.
Bảo Anh - Nữ 31 tuổi - Kế toán:
Quý vị nhìn nhận thế nào về vai trò của tập đoàn kinh tế. Có thực sự là
những “anh cả” trong phát triển kinh tế của đất nước và họ đã đảm bảo
được vai trò "anh cả" trong sản xuất kinh doanh, hỗ trợ nền kinh tế
phát triển chưa?
Ông Phạm Khắc Dũng:
Theo tôi, hiện nay các tập đoàn kinh tế mặc dù mới được thành lập và đi
vào hoạt động với thời gian chưa lâu, nhưng đã dần dần khẳng định được
vai trò của mình trong các lĩnh vực liên quan của nền kinh tế.
Các tập đoàn đặc biệt chú trọng việc đổi mới mô hình quản trị doanh
nghiệp, tăng cường tính chuyên nghiệp trong các hoạt động kinh doanh
nhằm đáp ứng đòi hỏi ngày càng cao của thị trường.
Văn Thiếu Sơn - Nữ 40 tuổi - Kỹ sư:
Các ông suy nghĩ như thế nào trước thông tin Tập đoàn Công nghiệp Tàu
thủy Việt Nam (Vinashin) có đến 157 doanh nghiệp thành viên, trong khi
phần lớn hoạt động bằng vốn đi vay?
Ông Nguyễn Đức Kiên:
Chào bạn, theo tôi thì đây là một khuyết điểm trong mô hình tổ chức của Vinashin.
Tại báo cáo giám sát của Quốc hội sẽ được thảo luận tại hội trường vào
ngày 9/11 tới đây cũng là một khuyết điểm. Khuyến điểm này là do đội
ngũ làm quản trị doanh nghiệp và bộ máy giúp việc đã không thể đủ kinh
nghiệm và năng lực để kiểm soát và lãnh đạo, chỉ đạo, định hướng cho
doanh nghiệp thành viên nên nhiều doanh nghiệp thành viên khi kinh tế
có biến động đã không kịp xử lý, làm cho các khó khăn ngày càng trầm
trọng hơn, dẫn tới doanh nghiệp mất vốn, đời sống người lao động gặp
khó khăn...
Các chỉ đạo của Chính phủ đối với tập đoàn này trong thời gian vừa qua
cũng là từng bước giúp tập đoàn vượt qua những hạn chế đó.
Hoang Ha - Nam 55 tuổi - Nhà báo:
Làm tổng giám đốc tập đoàn có "khó" hơn làm tổng giám đốc một công ty
không? Sự khác biệt lớn nhất trong điều hành tập đoàn so với công ty là
gì, thưa hai tổng giám đốc?
Ông Nguyễn Ngọc Sự:
Phải phân biệt rõ những doanh nghiệp nào xứng đáng là tập đoàn và
những doanh nghiệp nào có tên là tập đoàn nhưng chưa đủ tầm cỡ tập đoàn.
Đã là tổng giám đốc tập đoàn thì quy mô phạm vi quản lý điều hành lớn
hơn nhiều so với một đơn vị. Bản thân tập đoàn là một sự liên kết giữa
các công ty lại với nhau và được điều hành thông qua các quan hệ tài
chính. Công ty mẹ quản lý điều hành và chi phối thông qua vốn, thương
hiệu, chiến lược phát triển, thị trường.
Vì vậy làm tổng giám đốc tập đoàn khó khăn hơn rất nhiều so với giám đốc một doanh nghiệp.
Thúy Liên - Nữ 26 tuổi - Nhân viên văn phòng:
Mong ông, bà cho biết tính ưu việt của tập đoàn so với tổng công ty
trước đây, và sự ưu việt đó được biểu hiện như thế nào qua kết quả kinh
doanh của mình thời gian qua?
Ông Phạm Khắc Dũng:
Tính ưu việt của tập đoàn được thể hiện trên một số khía cạnh như sau;
quản trị doanh nghiệp được củng cố theo hướng tập trung, có chiến lược
kinh doanh ngắn hạn, dài hạn một cách cụ thể, tổng hòa được sức mạnh
của các công ty thành viên, nâng cao năng lực cạnh tranh và đặc biệt là
việc tận dụng được sức mạnh của thương hiệu trong hoạt động kinh doanh
của mình.
Đối với Tập đoàn Bảo Việt, ưu việt này được thể hiện: các công ty con
của Tập đoàn Bảo Việt kinh doanh trong các lĩnh vực nòng cốt bao gồm
dịch vụ bảo hiểm nhân thọ, phi nhân thọ, quản lý quỹ, chứng khoán đều
là các công ty hàng đầu trên thị trường về năng lực cạnh tranh và chất
lượng dịch vụ khách hàng.
Tập đoàn Bảo Việt sở hữu Bảo hiểm Bảo Việt và Bảo Việt Nhân thọ là hai
công ty bảo hiểm nhân thọ và phi nhân thọ hàng đầu, chiếm 32% thị phần
bảo hiểm tại Việt Nam. Công ty Cổ phần Chứng khoán Bảo Việt là công ty
chứng khoán đầu tiên tại Việt Nam.
Năm 2008, Tập đoàn Bảo Việt đã thành lập Ngân hàng Bảo Việt nhằm mở
rộng khả năng cung cấp các dịch vụ tài chính kết hợp ngân hàng - bảo
hiểm và đầu tư tài chính cho khách hàng, thực hiện mục tiêu trở thành
một tập đoàn dịch vụ tài chính - bảo hiểm hàng đầu tại Việt Nam.
Nguyen Hong Nhung - Nữ 32 tuổi - Nhân viên văn phòng:
Tôi xin hỏi ông Kiên thế này. Tại sao khi các tập đoàn, tổng công ty mở
rộng rất nhanh, nhiều vấn đề nảy sinh trong quản lý, hiệu quả, định
hướng… thì mới tập trung vấn đề giám sát. Tại sao không giám sát chặt
ngay từ đầu, lường trước các nảy sinh, hay tại năng lực của các cơ quan
quản lý, giám sát còn hạn chế? Trân trọng cảm ơn.
Ông Nguyễn Đức Kiên:
Chào bạn, tập đoàn đầu tiên được thành lập là năm 2005. Bắt đầu từ 2007
mới có các đầu tư vào thị trường chứng khoán, nếu không có khủng hoảng
kinh tế năm 2008 thì các vấn đề hiệu quả đầu tư ngoài ngành sẽ không
được đặt ra.Vì hiệu quả đầu tư trong lĩnh vực tài chính và tiền tệ bao
giờ cũng cao hơn lĩnh vực sản xuất, đặc biệt là cơ khí và xây dựng.
Trong năm 2009 không có hoạt động đầu tư nào phát sinh trong lĩnh vực
tài chính ngân hàng. Tôi cũng xin chia sẻ với bạn là năng lực của đội
ngũ cán bộ chúng tôi được đào tạo trong hệ thống xã hội chủ nghĩa nên
khi nghiên cứu ban hành chính sách để quản lý điều tiết các tập đoàn
cũng còn nhiều bỡ ngỡ.
Nhất là chúng ta lại đi sau so với các nước công nghiệp phát triển, bị
sức ép rất nhiều trong việc chiếm lĩnh thị trường cũng như luôn luôn bị
các rình rập pháp lý của các nước đối tác đối với hàng Việt Nam (như cá
tra, cá basa ở Mỹ, giày dép ở châu Âu, gạo ở Nhật Bản...).
Tôi hy vọng rằng ngày càng có nhiều người có trình độ năng lực như bạn
tham gia vào các bộ máy hoạch định chính sách để giúp cho việc vận hành
bộ máy ngày càng tiến bộ, tránh được những rủi ro không cần thiết cho
doanh nghiệp. Trân trọng.
Do Van Tung - Nam 39 tuổi - Chuyên viên:
Dư luận mỗi khi nhắc đến tập đoàn kinh tế là thường gắn liền với cụm từ
“đầu tư dàn trải”. Các ông có thừa nhận điều đó không và sẽ phản biện
như thế nào?
Ông Vũ Đức Giang:
Xin cảm ơn câu hỏi của bạn,
Tập đoàn Dệt may chúng tôi chủ yếu tập trung đầu tư và lĩnh vực cốt
lõi. Trong lĩnh vực phát triển, chúng tôi tập trung đầu tư vào sản xuất
phát triển cây nguyên liệu như các cây bông, cây có sơ để phục vụ cho
ngành dệt.
Tập đoàn Dệt may và Tập đoàn Dầu khí đã đầu tư xây dựng nhà máy sợi
polyte. Chúng tôi đầu tư phát triển các khu công nghiệp và đầu tư các
nhà máy xử lý nước thải để di dời các nhà máy của Tập đoàn ở các thành
phố lớn ra các khu công nghiệp này. Đồng thời kêu gọi đầu tư từ nước
ngoài vào lĩnh vực dệt may vào các khu công nghiệp này.
Chúng tôi tập trung phát triển nhà máy sản xuất sợi, dệt, nhuộm, phụ
liệu may, đào tạo nguồn lực, trong đó chú trọng đào tạo nguồn lực cán
bộ quản lý, đào tạo kỹ sư ngành sợi, dệt, nhuộm . Đào tạo cán bộ kỹ
thuật, đào tạo đội ngũ thiết kế thời trang cho các doanh nghiệp dệt
may. Chúng tôi nghiên cứu về các chủng loại dệt cao cấp, Viện Fardin
phát triển về thời trang, thương hiệu…
Xin khẳng định rằng, về đầu tư ra ngoài ngành, chúng tôi chỉ đầu tư ra ngoài 7,81% tổng nguồn vốn của Tập đoàn.
Chúng tôi thấy rằng ngành dệt may đang có lợi thế cạnh tranh tốt, đang
giải quyết được hai vấn đề cốt lõi của xã hội như giải quyết công ăn
việc làm cho người lao động lớn nhất toàn ngành công nghiệp ở Việt Nam.
Tiếp theo, ngành dệt may từ năm 2009 trở đi sẽ đóng góp lớn nhất vào
kim ngạch xuất khẩu trong các ngành.
Ngành dệt may không đạt tỷ suất lợi nhuận cao như tài chính, ngân hàng, nhưng lại mang lại hiệu quả bền vững.
Nguyễn Thành Trung - Nam 39 tuổi - Viên chức:
Có nhiều mô hình tập đoàn kinh tế, theo thuật ngữ tiếng Anh, một số tập
đoàn sử dụng từ "Group" một số khác thì sử dụng từ "Holding" . Vậy sự
khác nhau như thế nào về mô hình tập đoàn kinh tế khi có sự phân biệt
giữa hai từ này ?
Ông Phạm Khắc Dũng:
Theo tôi, từ Group được hiểu là một nhóm các công ty có những chức năng
tương đối đồng nhất, có tư cách pháp nhân, liên kết lại với nhau để trở
thành một Tập đoàn.
Còn từ Holdings được hiểu đây là công ty mẹ, với chức năng chính là đầu
tư và thành lập các công ty thành viên (công ty con) để hoạt động trong
các lĩnh vực kinh doanh theo đính hướng, chiến lược của công ty mẹ.
Do đó đổi khi từ Group và Holdings được sử dụng một cách riêng rẽ, đôi
khi được sử dụng chung. Việc sử dụng này tùy thuộc vào từng trường hợp
cụ thể.
Vũ Thu Hương - Nữ 29 tuổi - Nhân viên văn phòng:
Trong giai đoạn khó khăn của nền kinh tế vừa qua, các tập đoàn kinh tế
đã thể hiện vai trò của mình như thế nào trong việc ngăn chặn suy giảm
kinh tế? đã vượt qua những khó khăn của chính mình như thế nào? hiện đã
hết khó khăn chưa?
Ông Vũ Đức Giang:
Trong thời gian vừa qua, Tập đoàn Dệt may đã tập trung vào một số các giải pháp để vượt qua khó khăn.
Thứ nhất, Tập đoàn đã chỉ đạo các doanh nghiệp thành viên tập trung vào
phát triển thị trường, đặc biệt là thị trường xuất khẩu mới.
Thứ hai, triển khai phát triển những mặt hàng mới, thị trường mới, ví
dụ trong 10 tháng năm 2009, Tập đoàn đã xuất khẩu vào Trung Đông các
sản phẩm sợi, vải, khăn bông, các loại phụ liệu…
Thứ ba, như tôi nói ở trên, chúng tôi tập trung đầu tư phát triển công
nghệ, đầu tư vào mô hình quản lý Lean nhằm nâng cao năng suất lao động,
hiệu quả kinh doanh.
Thứ tư, phát triển thị trường trong nước thông qua các giải pháp phát
triển thương hiệu, nhãn hiệu hàng hóa, mở rộng hệ thống phân phối, xây
dựng và phát triển, quảng bá các chương trình hội chợ trong và ngoài
nước.
Với những nỗi lực của toàn tập đoàn, 10 tháng vừa qua, hoạt động sản
xuất kinh doanh đã ổn định, mang tính bền vững và vượt qua được khó
khăn trước suy giảm kinh tế trong nước và khủng hoảng tài chính toàn
cầu.
Minh Đức - Nam 30 tuổi:
Tôi đọc báo thấy có rất nhiều tin các ngân hàng tài trợ vốn hàng nghìn
tỷ đồng, liên tục và thường xuyên, cho các tập đoàn kinh tế. Trong khi
những doanh nghiệp nhỏ như chúng tôi tìm vốn rất khó khăn. Tất nhiên là
còn tùy thuộc vào uy tín, hiệu quả dự án..., nhưng có sự ưu ái rất rõ
trong việc này. Xin các diễn giả cho biết quan điểm về sự ưu ái đó.
Ông Nguyễn Đức Kiên:
Chào bạn, vấn đề bạn nêu trong quá trình giám sát tại các địa phương và
doanh nghiệp chúng tôi cũng đã được phản ánh. Trong quá trình điều hành
nền kinh tế của năm 2009, tại các quyết định 131,443, 497 của Thủ tướng
Chính phủ những vấn đề này cũng đã được đặt ra để xử lý thông qua việc
quy định cụ thể các đối tượng, hạn mức, thời gian được vay...
Tất nhiên, chúng ta cũng phải hiểu rằng các ngân hàng thương mại cổ
phần cũng là loại hình doanh nghiệp đặc biệt kinh doanh tiền tệ nên
cũng có trách nhiệm bảo toàn vốn của người vay, người cho vay. Vì vậy,
các ngân hàng đều phải quy định các vấn đề thế chấp bằng dự án, bằng
hàng hóa hoặc bằng tài sản của doanh nghiệp đối với các khoản vay.
Các công ty con nằm trong hệ thống tập đoàn, tổng công ty có thể dễ
dàng vay tiền ở ngân hàng so với các công ty khác là do có tập đoàn
hoặc tổng công ty đứng ra bảo lãnh khoản vay. điều này cũng lý giải tại
sao có xu hướng rất nhiều doanh nghiệp của các địa phương làm đơn xin
vào làm thành viên của tập đoàn, tổng công ty.
Theo tôi, ngân hàng cũng không có chính sách ưu đãi đặc biệt đối với
các tập đoàn, tổng công ty. Bạn hãy yên tâm xây dựng phương án kinh
doanh có hiệu quả gửi đến một ngân hàng mà bạn đặt niềm tin để vay vốn
phát triển sản xuất. Nếu có khó khăn gì trong việc đòi hỏi tỷ lệ phần
trăm mới được vay vốn, xin bạn gửi thông tin về địa chỉ: Nguyễn Đức
Kiên, Ủy ban Kinh tế của Quốc hội, 37 Hùng Vương, Hà Nội.
Tôi hy vọng Ủy ban Kinh tế của Quốc hội có thể giúp bạn làm sáng tỏ vấn đề này.
Phạm Hưng Hùng - Nam 40 tuổi - Nghiên cứu sinh Đại học Birmingham:
Tôi rất ủng hộ việc duy trì và thành lập các tập đoàn và tổng công ty
lớn trong các lĩnh vực kinh tế then chốt. Các nước công nghiệp hóa muộn
như Nhật Bản, Hàn Quốc cũng đã rất thành công với mô hình này (với các
Keiretsu ở Nhật và Chaebol ở Hàn Quốc). Tuy nhiên, trong quá khứ, các
nước này có điều kiện thực hiện các biện pháp hỗ trợ và bảo hộ rất
mạnh, đặc biệt là khi các tập đoàn của họ còn non trẻ, sức cạnh tranh
còn yếu. Do các biện pháp này hiện nay không còn được phép áp dụng khi
nước ta đã tham gia WTO và hội nhập kinh tế quốc tế và khu vực, nên tôi
rất băn khoăn chúng ta sẽ có giải pháp cụ thể gì để hỗ trợ các tập đoàn
của chúng ta trước sự cạnh tranh ngày càng gia tăng của các công ty
nước ngoài trên thị trường quốc tế cũng như nội địa?
Ông Phạm Khắc Dũng:
Cám ơn bạn đã có một câu hỏi rất có chiều sâu và thể hiện việc bạn rất
quan tâm đến các mô hình tập đoàn của các nước trên thế giới.
Quả đúng vậy ở một số nước, khi mới thành lập các tập đoàn, Chính phủ đã có những hỗ trợ và bảo hộ mạnh.
Đối với các tập đoàn kinh tế của Việt Nam, xuất phát điểm để hình thành
các tập đoàn, cũng như môi trường kinh tế, xã hội của Việt Nam khác với
các nước. Do đó trong thời gian qua, Chính phủ cũng có rất nhiều những
giải pháp mang tính vĩ mô, tuy không trực tiếp, nhưng gián tiếp để các
tập đoàn khi mới thành lập dần dần ổn định, tạo một vị thế mới để phát
triển.
Ông Nguyễn Ngọc Sự:
Hiện nay các tập đoàn kinh tế Việt Nam đang có quy mô nhỏ so với các
tập đoàn kinh tế nước ngoài, do quy mô về vốn nhỏ, hoạt động phạm vi
hẹp và phần lớn mới chuyển từ mô hình tổng công ty Nhà nước sang, phần
nào vẫn mang dáng dấp của các tổng công ty hơn là tập đoàn, do đó sức
cạnh tranh chưa mạnh.
Để tạo điều kiện cho các tập đoàn này vươn lên thì tôi nghĩ rằng Chính
phủ phải có những chính sách rất cụ thể, tạo điều kiện cho các doanh
nghiệp này đẩy nhanh quá trình phát triển cũng như đổi mới cơ chế điều
hành của mình theo đúng mô hình tập đoàn.
Những chính sách đó bao gồm các vấn đề liên quan đến cơ chế quản lý của
Nhà nước, tăng quy mô về vốn, xây dựng những chính sách ưu đãi hỗ trợ
các tập đoàn non trẻ này làm tốt vai trò của mình.
Bên cạnh đó thì bản thân các tập đoàn cũng phải hết sức cố gắng trong
việc đổi mới hoạt động sản xuất kinh doanh, điều hành và quản lý của
mình, tích cực đổi mới công nghệ và đào tạo cán bộ, sử dụng vốn an toàn
và hiệu quả và đảm bảo uy tín về chất lượng sản phẩm của mình.
Doan Chi Cong - Nam 51 tuổi - Cán bộ nhà nước:
Hiện nay, cơ chế, hành lang pháp lý cho tập đoàn kinh tế vẫn chưa rõ
ràng, còn thiếu. vậy có ảnh hưởng đến hoạt động của các đơn vị hay
không? Bao giờ thì mới hoàn thiện? Mà tôi thấy ở Việt Nam mình, chính
sách vẫn cứ mải chạy theo thực tế, quá chậm với thực tế.
Ông Phạm Tuấn Anh:
Đến nay, Thủ tướng Chính phủ đã quyết định thí điểm hình thành 7 tập
đoàn kinh tế nhà nước trên cơ sở tổ chức lại 7 tổng công ty 91. Để có
hành lang pháp lý cho các tập đoàn hoạt động trong khi chưa ban hành
quy định pháp luật chung cho mô hình tập đoàn kinh tế, đối với mỗi tập
đoàn kinh tế, Thủ tướng Chính phủ đã ban hành các văn bản sau đây:
- Quyết định phê duyệt đề án thí điểm hình thành tập đoàn kinh tế.
- Quyết định thành lập công ty mẹ của tập đoàn kinh tế.
- Quyết định phê duyệt điều lệ hoạt động của công ty mẹ tập đoàn kinh tế.
- Quyết định bổ nhiệm thành viên hội đồng quản trị công ty mẹ tập đoàn kinh tế.
Bộ Tài chính ban hành quy chế quản lý tài chính hoặc thỏa thuận để hội
đồng quản trị công ty mẹ tập đoàn ban hành quy chế quản lý tài chính
của công ty mẹ.
Ngày hôm qua (5/11/2009), Thủ tướng Chính phủ đã ký ban hành Nghị định
của Chính phủ số 101/2009/NĐ-CP về thí điểm thành lập, tổ chức, hoạt
động và quản lý tập đoàn kinh tế nhà nước.
Cách đây một tuần, khi làm việc với Hội Doanh nghiệp trẻ Việt Nam, Thủ
tướng Chính phủ cũng vừa giao Bộ Kế hoạch và Đầu tư chủ trì phối hợp
các cơ quan liên quan nghiên cứu, đề xuất về mô hình tập đoàn kinh tế
tư nhân.
Hoàng Kim Xuyến - Nữ 41 tuổi - Nhân viên văn phòng:
Tôi là một nhân viên thuộc một tập đoàn kinh tế nhà nước. Sau hai năm
lên tập đoàn, cá nhân tôi thấy tự hào như đứng ở một tầm cao mới, nhưng
thực tế môi trường làm việc và thu nhập không mấy cải thiện. Xin hỏi
các diễn giả, sau hai năm chúng ta thì điểm thì đã đạt được những kết
quả gì từ mô hình này, hay vẫn là những bài học kinh nghiệm. Xin cảm
ơn.
Ông Phạm Khắc Dũng:
Việc chuyển đổi mô hình hoạt động với mục đích là nhằm nâng cao kết quả
hoạt động kinh doanh, cải thiện mọi mặt của doanh nghiệp, trong đó đặc
biệt quan tâm đến quyền lợi của người lao động.
Tuy nhiên quá trình này cần có thời gian, vì sau sự chuyển đổi là quá
trình triển khai thực hiện. Sau hai năm thực hiện thí điểm, đa phần các
tập đoàn đã hình thành và từng bước cải tiến, nâng cao họat động kinh
doanh. Các kết quả đạt được thể hiện trên các mặt về phạm vi hoạt động,
khă năng tài chính, môi trường làm việc được chú trọng…
Thực tế có thể nói, đây là những kết quả và thành công trên phương diện
tổng thể. Mặc dù vậy, đương nhiên sẽ còn tồn tại một số vấn đề, đòi hỏi
các Tập đoàn phải tiếp tục hoàn thiện.
Minh Br - Nam 43 tuổi - Nhà đầu tư:
Nói đến các tập đoàn kinh tế của nhà nước người ta thường nghĩ về những
tổ chức sở hữu những nguồn vốn lớn, cồng kềnh, sở hữu nhiều bất động
sản trọng yếu và có nhiều đặc quyền trong kinh doanh. Xin hỏi các diễn
giả điều đó có đúng không?
Ông Nguyễn Đức Kiên:
Chào bạn, phát hiện của bạn rất đúng. Như Tập đoàn Đường sắt Pháp cũng
là tập đoàn Nhà nước hiện Chính phủ Pháp đang quản lý. Tập đoàn này có
khối lượng tài sản rất lớn bao gồm diện tích đất chiếm dụng làm đường,
hệ thống các nhà ga và quảng trường rất rộng và lực lượng lao động tới
hàng trăm nghìn người.
Ở nước ta cũng có những quy định tương đối rõ ràng về việc các tập đoàn
quản lý tài sản Nhà nước. Trong thời gian vừa qua tại Hà Nội có những
tổng công ty Nhà nước mạnh dự định phá nhà cũ để xây dựng trung tâm
thương mại nhưng không được thành phố chấp nhận do đất vẫn thuộc sở hữu
Nhà nước, doanh nghiệp chỉ thuê lại.
Đưa ví dụ này ra để muốn trao đổi với bạn là nhận định các doanh nghiệp
Nhà nước chiếm dụng đất của Nhà nước cũng là chưa chính xác lắm. Tất
nhiên cũng có những doanh nghiệp ở giai đoạn đầu của thời kỳ cổ phần
hóa (1998 -2003) đã tính giá trị sử dụng đất vào tài sản doanh nghiệp
thì họ được quyền sử dụng vốn và tài sản đó phục vụ cho sản xuất kinh
doanh mà không vi phạm pháp luật.
Võ Minh Tâm:
Xin chào ông Sự. Ông có nói Petro Vietnam hiện là tập đoàn kinh tế lớn
nhất của VN. Vậy vị thế đó đi cùng với trách nhiệm và áp lực như thế
nào? Vì các chỉ số tài chính cơ bản không công bố cụ thể nên rất khó để
đánh giá hiệu quả của Petro trên thực tế, cũng như để so sánh với các
tập đoàn, tổng công ty khác. Ông có thể cho biết một số thông tin cơ
bản về những chỉ số này không? Thứ hai, theo quan điểm của ông, vị thế
của Petro Vietnam trong tương lai nên tiếp tục được củng cố thuộc về
Nhà nước, hay nên mở rộng để có sự tham gia của các tổ chức khác trong
và ngoài nước, thậm chí là các tập đoàn tư nhân? Ông có xem đó là một
sự “chia sẻ” không? Trân trọng cảm ơn.
Ông Nguyễn Ngọc Sự:
Petro Vietnam là một trong những doanh nghiệp lớn của nền kinh tế.
Chúng tôi luôn hiểu và làm tốt trách nhiệm của mình, góp phần cùng
Chính phủ ổn định kinh tế vĩ mô, đảm bảo an sinh xã hội, vai trò trách
nhiệm này không chỉ là một áp lực đối với một tập đoàn kinh tế hàng đầu
của đất nước. Mà chúng tôi còn hiểu rằng đó là trách nhiệm quyền lợi
của Petro Vietnam. Vì vậy Petro Vietnam luôn luôn phấn đấu để hoàn
thành tốt các chỉ tiêu kế hoạch đã được chính phủ thông qua.
Cụ thể, 10 tháng đầu năm 2009, Petro Vietnam đã cơ bản hoàn thành chỉ
tiêu kế hoạch năm 2009, tổng doanh thu 10 tháng đạt 214 ngàn tỷ đồng,
bằng 114% kế hoạch 10 tháng và 101% kế hoạch cả năm 2009, nộp ngân sách
Nhà nước 10 tháng đạt 72 ngàn tỷ, bằng 129% kế hoạch 10 tháng và đạt
118% kế hoạch cả năm 2009. Các dự án đầu tư đều đảm bảo tiến độ, chất
lượng, hiệu quả…
Với những chỉ tiêu cơ bản như vậy thì có thể đánh giá một cách tổng
quát rằng hoạt động kinh doanh và đầu tư của Petro Vietnam là có hiệu
quả.
Với vai trò vị thế của Petro Vietnam đối với nền kinh tế như tôi đã
trình bày ở trên, thì trong những năm tới đây Chính phủ nên duy trì
việc quản lý điều hành Petro Vietnam như hiện tại mà chưa nên thực hiện
cổ phần hóa mời đối tác nước ngoài để cổ phần hóa công ty mẹ.
Thúy Liên - Nữ 26 tuổi - Nhân viên văn phòng:
Sự hấp dẫn của lợi nhuận chính là yếu tố hút các tập đoàn. Vây nếu
trong một lĩnh vực không còn sức hấp dẫn của lợi nhuận mà lại thuộc
ngành nghề chính của mình thì yếu tố gì sẽ ràng buộc các tập đoàn?
Ông Phạm Khắc Dũng:
Sự hấp dẫn của lợi nhuận không chỉ là sự quan tâm riêng của các Tập
đoàn, mà là của tất cả các doanh nghiệp khi hình thành và phát triển.
Khi doanh nghiệp hình thành, bản thân doanh nghiệp đó đã tự xác định
chiến lược, và hướng đi của mình. Có thể việc kinh doanh sẽ có những
năm không thuận lợi, do rất nhiều yếu tố khách quan và chủ quan, nhưng
với một chiến lược có chiều sâu thì các doanh nghiệp sẽ tiếp tục đi
theo định hướng của mình. Không có lẽ chỉ vì một năm khi lợi nhuận chưa
đảm bảo, mà doanh nghiệp đã từ bỏ chiến lược của mình đã đặt ra.
Từ đó có thể thấy yếu tố ràng buộc doanh nghiệp chính là định hướng và
chiến lược của mình. Các doanh nghiệp cần chú trọng việc xây dựng chiến
lược kinh doanh, xác định ngành nghề chính, có tính đến những biến động
của thị trường.
Nguyễn Hoàng Thu Uyên - Nữ 36 tuổi - Kiểm toán:
Những năm gần đây, một phong trào nở rộ là rất rất nhiều công ty bé
tẹo, hoặc có tiếng một chút đều rất tự tin đưa hai chữ "Tập đoàn" vào
tên gọi. Theo các diễn giả, như thế có lạm phát không? Nên hiểu thế nào
và cần như thế nào để phù hợp với tên gọi đó?
Ông Phạm Tuấn Anh:
Một trong các kỳ vọng khi đặt tên doanh nghiệp của mình là “tập đoàn”,
những người chủ doanh nghiệp mong muốn qua đó khuếch trương, nâng cao
vị thế, thương hiệu cho doanh nghiệp và sản phẩm trên thương trường.
Tuy nhiên, vị thế, thương hiệu đó có được thị trường và người tiêu dùng
công nhận như kỳ vọng đó hay không thì phải phụ thuộc vào năng lực,
hiệu quả và sức cạnh tranh thực tế của doanh nghiệp.
Nếu doanh nghiệp không thực sự mạnh như tên “tập đoàn” mà nó mang tên
thì việc đặt tên “tập đoàn” sẽ mang lại hiệu quả ngược với kỳ vọng nêu
trên.
Dr Minh - Nam 36 tuổi - Viên chức:
Theo tôi thấy các tập đoàn kinh tế hiện nay đang nắm giữ các lĩnh vực
trọng yếu của nền kinh tế, và có nhiều lợi thế và ưu đãi, độc quyền
(như điện, dầu khí, than...). Trong tương lai, những lợi thế đó có chia
sẻ cho các thành phần tư nhân, nước ngoài hay không?
Ông Nguyễn Đức Kiên:
Chào bạn. Tôi xin trao đổi lại một chút về nhận định của bạn nhé. Về
điện thì EVN hiện nay mới chỉ nắm chưa đến 50% nguồn phát, còn lại là
do Petro Vietnam, TKV, Nomura, Hiệp Phước và nhiều nhà máy thủy điện
thuộc các công ty cổ phần phát lên lưới.
Về dầu khí thì theo tôi biết ngoài Petro Vietnam còn có BP (của Anh),
Vietsopetro (liên doanh với Nga) cung cấp dầu và khí. Trong kế hoạch
phát triển điện đến 2015 chúng ta còn dự kiến mua khí và dẫn về nước từ
Malaysia.
Nếu có thời gian sẽ cung cấp thêm cho bạn một số thông tin nữa mà bạn quan tâm.
Bảo Anh - Nữ 31 tuổi - Kế toán:
Xin hỏi ông Kiên: Là người "ngoài cuộc", nhưng nếu có thể tạo sự đột
phá trong xây dựng và phát triển các tập đoàn kinh tế, theo ông nên bắt
đầu từ đâu? Đặt vị trí mình là người lãnh đạo cao nhất của một tập đoàn
phải hứng chịu nhiều “búa rìu” dư luận nhất ông sẽ làm gì?
Ông Nguyễn Đức Kiên:
Chào bạn, bạn dùng dấu "..." làm tôi rất khó trả lời. Trong thâm tâm
tôi luôn tự nghĩ mình đồng hành cùng doanh nghiệp, trong khi bạn lại
coi tôi là người "ngoài cuộc".
Tôi không rõ bạn đề cập đến tập đoàn kinh tế Nhà nước hay của các tập
đoàn thuộc các thành phần kinh tế khác. Nếu là của các thành phần kinh
tế khác thì tôi sẽ thành lập hợp tác xã vì mô hình hợp tác xã có nhiều
lợi thế khi áp dụng ở Việt Nam do phù hợp với trình độ của người nông
dân, khả năng huy động vốn và khả năng quản lý.
Tất nhiên, nếu là doanh nghiệp Nhà nước thì lại phải đi từ những vấn đề
lớn mà các tập đoàn hiện nay đang làm. Như Tổng công ty Hàng không Việt
Nam mở tuyến bay quốc tế, còn tuyến nội địa với các loại máy bay không
yêu cầu cao nhường cho các doanh nghiệp mới. Nhưng tiếc rằng nhiều
doanh nghiệp mới mở lại hăng hái mở đường bay quốc tế với những yêu cầu
rất cao nên tạo thành những mâu thuẫn không cần thiết giữa các doanh
nghiệp trong nước với nhau.
Còn câu hỏi thứ hai của bạn thì thật là khó. Theo tôi cần phải cung cấp
thông tin đa chiều cho báo chí và xã hội để tạo sự đồng thuận. Tất
nhiên, trong quá trình điều hành sản xuất và kinh doanh không người
quản lý nào lại có thể khẳng định mọi quyết sách của mình đúng 100%.
Vấn đề là khi sự việc xảy ra chúng ta ứng xử với nó như thế nào để
những người quan tâm có thể hiểu rõ bản chất sự việc, hạn chế "búa rìu"
như bạn nói.
Đỗ Mai Tuyết - Nữ 36 tuổi - NVVP:
Tôi để ý thấy có sự khác biệt giữa 3 tập đoàn tham gia giao lưu hôm nay ở một chi tiết nhỏ. Ở Bảo Việt và
Dầu khí, hầu hết các công ty trực thuộc đều thống nhất thương hiệu "Bảo
Việt" và "Petro", nhưng với Vinatex thì nhiều công ty trực thuộc lại có
thương hiệu riêng. Vây xin hỏi các diễn giả, nếu tập đoàn kinh tế là
một chỉnh thể thống nhất trong quản lý, trong tập trung sức mạnh... thì
việc thống nhất thương hiệu nên xem như thế nào? Xin hỏi riêng lãnh đạo
Vinatex, chi tiết trên theo ông cần nhìn nhận như thế nào ở tập đoàn
của ông. Trân trọng cảm ơn.
Ông Phạm Khắc Dũng:
Thương hiệu có giá trị cốt lõi và đóng vai trò quan trọng trong hoạt
động kinh doanh của doanh nghiệp. Việc xây dựng và quản lý thương hiệu
tập trung là một vấn đề rất quan trọng, đảm bảo nâng cao hình ảnh của
thương hiệu. Do đó cần thiết phải có chiến lược và phát triển thương
hiệu thống nhất trong toàn bộ tập đoàn.
Ông Nguyễn Ngọc Sự:
Cảm ơn câu hỏi thú vị của bạn.
Thương hiệu gắn liền với uy tín của một doanh nghiệp, trong kinh doanh,
các doanh nghiệp luôn luôn phải tận dụng uy tín thương hiệu của mình,
uy tín càng lớn thì giá trị thương hiệu càng cao và càng có lợi thế
kiinh doanh.
Vì vậy tôi cho rằng đã là thương hiệu thì phải xuyên suốt từ trên xuống
dưới, khi khách hàng mua một sản phẩm của bất cứ một doanh nghiệp nào
thuộc một tập đoàn kinh tế thì người ta phải hiểu rằng đó là sản phẩm
của tập đoàn ấy.
Có nghĩa rằng các doanh nghiệp phải làm tốt công tác nhận dạng thương
hiệu, trong đó hiệu quả nhất là phải có một thương hiệu thống nhất từ
trên xuống dưới, nếu trong một tập đoàn mà lại không có một thương hiệu
thống nhất thì sẽ ảnh hưởng trực tiếp đến uy tín, quy mô hoạt động của
tập đoàn và ảnh hưởng trực tiếp đến tâm lý của người tiêu dùng đến sản
phẩm của doanh nghiệp đó.
Nguyen Quoc Toan:
Xin hỏi ý kiến cá nhân của ông Sự, thời gian qua dư luận có nhiều ý
kiến về hoạt động của các tập đoàn, hoài nghi về tính hợp lý và hiệu
quả... Bản thân ông có chịu áp lực không? Xin cảm ơn.
Ông Nguyễn Ngọc Sự:
Cảm ơn bạn đã chia sẻ áp lực với tôi nói riêng và với lãnh đạo của
Petro Vietnam nói chung. Theo tôi đã là một tập đoàn kinh tế lớn và với
vai trò trách nhiệm nặng nề thì áp lực đặt ra đối với lãnh đạo tập đoàn
là tất yếu. Để làm tốt được vai trò trách nhiệm của tập đoàn thì tập
thể lãnh đạo của Petro Vietnam luôn luôn phải hết sức cố gắng trong
việc hợp tác và làm hết trách nhiệm của mình, tôi nghĩ rằng không chỉ
riêng Petro Vietnam mà các tập đoàn kinh tế khác cũng phải chịu trách
nhiệm như vậy, chúng tôi đã làm tốt và sẽ cố gắng làm tốt hơn vai trò
của mình trong điều kiện áp lực rất lớn.
Le Hoang Giang - Nam 33 tuổi:
Theo các diễn giả, hiện nay khó khăn lớn nhất của các tập đoàn là gì?
Ông Phạm Khắc Dũng:
Theo tôi, vấn đề mà các tập đoàn nên chú trọng là việc xây dựng một mô
hình quản trị doanh nghiệp phù hợp với từng doanh nghiệp. Bởi vì khi
chuyển sang hoạt động theo mô hình mới thì không thể áp dụng cách thức,
phương thức quản trị doanh nghiệp trước đây. Điều đó sẽ bó hẹp và sẽ
gây cản trở cho sự phát triển doanh nghiệp.
Lê Vân Ly - Nữ 35 tuổi - Giảng viên:
Thưa ông Nguyễn Đức Kiên, chúng ta đặt nhiều hy vọng vào sự lớn mạnh
của các tập đoàn kinh tế. Theo đánh giá của ông, bao nhiêu năm nữa các
tập đoàn kinh tế sẽ xây dựng được các thương hiệu quốc tế mạnh cho Việt
Nam?
Ông Nguyễn Đức Kiên:
Cảm ơn câu hỏi của bạn, thương hiệu quốc tế trước hết là một khái niệm
có lúc được xây dựng trên cơ sở vật chất, có lúc lại trên cơ sở niềm
tin, nhưng nhìn chung niềm tin và chất lượng luôn phải đi cùng nhau thì
mới bền vững được.
Qua theo dõi một số mặt hàng chủ lực của Việt Nam, như cá tra hay cá
basa chỉ trong vài năm chúng ta đã xây dựng được thương hiệu tại thị
trường Mỹ với chất lượng cao và giá cả hợp lý. Sản phẩm cá của chúng ta
từng bước chiếm được sự tin cậy của người tiêu dùng Mỹ.
Mặt hàng dệt may của chúng ta có kim ngạch xuất khẩu năm 2009 tới hơn 6
tỷ đô la nhưng những thương hiệu như Việt Tiến, Nhà Bè, May 10, Đức
Giang...vẫn chưa thể tạo uy tín trên thị trường như một số thương hiệu
của Ý, Pháp...
Vì vậy, trả lời chính xác câu hỏi của bạn là bao nhiêu lâu nữa thì rất
khó, nhưng tôi tin rằng từ nay đến 2020 chúng ta sẽ có nhiều sản phẩm
được bạn bè quốc tế sử dụng.
Phạm Hưng Hùng - Nam 40 tuổi - Nghiên cứu sinh Đại học Birmingham:
Xin được hỏi ông Phạm Tuấn Anh: Theo Báo cáo số 177/BC-CP của Chính
phủ, ngày 13/11/2008 tại kỳ họp thứ tư, Quốc hội khoá XII thì “hệ thống
doanh nghiệp nhà nước đã được sắp xếp, đổi mới, từ trên 12.000 nay còn
trên 1.700 doanh nghiệp”. Tức là đã có hơn 10.000 doanh nghiệp được sắp
xếp. Tuy nhiên, theo Báo cáo số 38/BC-BTC, ngày 29/5/2008, Bộ Tài chính
báo cáo trả lời chất vấn đại biểu quốc hội thì “tính đến cuối năm 2007,
cả nước đã sắp xếp được 5.366 doanh nghiệp, trong đó cổ phần hoá 3.756
doanh nghiệp và bộ phận doanh nghiệp; số doanh nghiệp nhà nước còn phải
cổ phần hoá giai đoạn 2007-2010 theo các phương án đã được Thủ tướng
Chính phủ phê duyệt là 950 doanh nghiệp”. Xin ông vui lòng giải thích
rõ giúp sự khác biệt trong 2 con số nêu trên.
Ông Phạm Tuấn Anh:
12.000 là số doanh nghiệp nhà nước vào năm 1991, còn
5.366 là số doanh nghiệp đã được sắp xếp từ năm 2001 tới nay. 10.000
doanh nghiệp nhà nước đã được sắp xếp là từ năm 1990 đến nay. Do đó,
không có sự mâu thuẫn giữa các con số này.
Lê Vân Ly - Nữ 35 tuổi - Giảng viên:
Thưa ông Nguyễn Đức Kiên, chúng ta đặt nhiều hy vọng vào sự lớn mạnh
của các tập đoàn kinh tế. Theo đánh giá của ông, bao nhiêu năm nữa các
tập đoàn kinh tế sẽ xây dựng được các thương hiệu quốc tế mạnh cho Việt
Nam?
Ông Nguyễn Đức Kiên:
Cảm ơn câu hỏi của bạn, thương hiệu quốc tế trước
hết là một khái niệm có lúc được xây dựng trên cơ sở vật chất, có lúc
lại trên cơ sở niềm tin, nhưng nhìn chung niềm tin và chất lượng luôn
phải đi cùng nhau thì mới bền vững được.
Qua theo dõi một số mặt hàng chủ lực của Việt Nam, như cá tra hay cá
basa chỉ trong vài năm chúng ta đã xây dựng được thương hiệu tại thị
trường Mỹ với chất lượng cao và giá cả hợp lý. Sản phẩm cá của chúng ta
từng bước chiếm được sự tin cậy của người tiêu dùng Mỹ.
Mặt hàng dệt may của chúng ta có kim ngạch xuất khẩu năm 2009 tới hơn 6
tỷ đô la nhưng những thương hiệu như Việt Tiến, Nhà Bè, May 10, Đức
Giang... vẫn chưa thể tạo uy tín trên thị trường như một số thương hiệu
của Ý, Pháp...
Vì vậy, trả lời chính xác câu hỏi của bạn là bao nhiêu lâu nữa thì rất
khó, nhưng tôi tin rằng từ nay đến 2020 chúng ta sẽ có nhiều sản phẩm
được bạn bè quốc tế sử dụng.
Bảo Anh - Nữ 31 tuổi - Kế toán:
Trong thời gian qua, dự luận cũng nhắc nhiều đến tập đoàn kinh tế, đặc
biệt là tính kém hiệu quả trong sản xuất kinh doanh của các tập đoàn so
với tiềm năng và ưu đãi vốn có. Vậy, các ông trả lời người dân thế nào
về những bình luận đó và có thấy là “bị oan” hay không?
Ông Nguyễn Ngọc Sự:
Đã là tập đoàn kinh tế thì hoạt động của họ phải đa ngành nghề, đa sản
phầm, cho nên các tập đoàn phải đầu tư vào rất nhiều lĩnh vực, nhưng
đầu tư vào nhiều lĩnh vực và đầu tư dàn trải hoàn toàn khác nhau.
Thời gian qua do ảnh hưởng của khủng hoảng kinh tế, một số doanh nghiệp
đã không có đủ điều kiện để đầu tư các dự án của mình theo đúng tiến
độ. Cũng phải thừa nhận một điều rằng cũng có một số doanh nghiệp việc
đầu tư quá tràn lan theo phong trào, tuy nhiên, đối với Petro Vietnam
thì không có việc ấy.
Chúng tôi đầu tư và phát triển tập đoàn theo đúng định hướng chiến lược
đã được Chính phủ thông qua. Để cho các hoạt động này có hiệu quả hơn
thực hiện chỉ đạo của Chính phủ về việc rà soát cơ cấu lại các doanh
nghiệp Petro Vietnam đã và đang làm rất tốt điều này.
Nguyễn Anh Thiện - Nam 29 tuổi - Nhà đầu tư:
Xin hỏi các diễn giả. Xu hướng thời gian qua là các tập đoàn cao su,
than, điện, dầu khí... đều thành lập hoặc tham gia góp vốn mở công ty
chứng khoán, ngân hàng, quỹ đầu tư. Hoạt động đó tại các tập đoàn hiện
nay như thế nào? Hiệu quả đến đâu? Vì sao lại có xu hướng đó?
Ông Nguyễn Đức Kiên:
Chào bạn, xin trả lời bạn như sau, từ 2006 - 2008 có 34 tập đoàn, tổng
công ty đầu tư vào chứng khoán trong đó của tập đoàn và tổng công ty
đặc biệt là 867 tỷ đồng (chiếm 42,5%); trong lĩnh vực quỹ đầu tư là 852
tỷ đồng (hiếm 48,4%). Hiệu quả đầu tư trong lĩnh vực tài chính (lợi
nhuận trên vốn đầu tư năm 2006 là 7,41%, 2007 là 9,24%, và năm 2008 là
4,78%.
Có xu hướng như bạn nói là thời kỳ đầu khi thành lập thị trường chứng
khoán và xây dựng các tổ chức tín dụng mới, các doanh nghiệp Nhà nước
phải đi trước mở đường, đồng thời đây cũng là lĩnh vực được dự báo là
có tỷ suất lợi nhuận cao nếu so với cơ khí, xây dựng, giao thông...
Đến nay, về cơ bản hơn 90% các doanh nghiệp hoạt động trong lĩnh vực
chứng khoán là của các thành phần kinh tế khác, chỉ có 5/97 ngân hàng
là ngân hàng cổ phần do Nhà nước chi phối vốn.
Qua các số liệu như vậy, để cung cấp cho bạn một cách nhìn mới về việc
đầu tư của các tập đoàn và tổng công ty Nhà nước ra ngoài ngành trong
thời gian vừa qua.
Thúy Hà:
Chính phủ lại vừa có kế hoạch phát hành 1 tỷ USD trái phiếu
về cho các tập đoàn. Tại sao những doanh nghiệp lớn mạnh như Petro
Vietnam (như khẳng định của ông Sự) lại không tự tin để gọi vốn về cho
các doanh nghiệp của mình, như thế cũng giảm áp lực đối với vốn trong
nước?
Ông Nguyễn Ngọc Sự:
Cảm ơn bạn.
Petro Vietnam rất tự tin trong việc gọi vốn bằng nhiều hình thức khác
nhau, chúng tôi đã huy động được khá nhiều nguồn vốn trong quá trình
đầu tư, trong kế hoạch huy động vốn của Petro Vietnam, chúng tôi sẽ
thực hiện việc phát hành trái phiếu quốc tế của riêng mình vào năm
2010, đồng thời Petro Vietnam cũng đang làm việc với Bộ Tài chính và
Chính phủ để xin phép được sử dụng một phần khoản tiền thu được từ phát
hành trái phiếu Chính phủ.
Với Petro Vietnam nhu cầu vốn rất lớn nên chúng tôi phải chủ động huy
động các nguồn vốn cho mình, và chúng tôi tin rằng, với uy tín của
Petro Vietnam và bằng nhiều hình thức huy động khác nhau chúng tôi sẽ
thành công trong việc huy động vốn. Như vậy không thể nói rằng không tự
tin vào việc huy động vốn.
Attention
The original article is written and published on VnEconomy in Vietnamese only. To read the full article, please use the Google Translate tool below to translate the content into your preferred language.
VnEconomy is not responsible for the translation.
VnEconomy is not responsible for the translation.
Google translate