Toàn cảnh bức tranh kinh doanh doanh nghiệp niêm yết quý 4/2022 vừa được VnDirect cập nhật ghi nhận một quý lợi nhuận ròng đáng thất vọng.
Theo ước tính, tổng lợi nhuận ròng Q4/22 của các công ty niêm yết trên 3 sàn (HOSE, HNX, UPCOM) giảm 30,4% so với cùng kỳ, mức giảm lớn nhất kể từ khi dịch Covid-19 bùng phát.
NGÀNH THÉP GIẢM MẠNH NHẤT THỊ TRƯỜNG
Kết quả đáng thất vọng trong Q4/2022 đã kéo tăng trưởng lợi nhuận ròng của thị trường năm 2022 xuống chỉ còn 7,1% so với cùng kỳ, thấp hơn nhiều so với dự báo là 16,7% so với cùng kỳ cho cả năm.
Khó khăn tiếp nối với các doanh nghiệp Thép, Thực phẩm và Chứng khoán. Lợi nhuận ròng Q4/2022 của các nhà sản xuất thép niêm yết giảm sâu 155,6% so với cùng kỳ do suy giảm sản lượng tiêu thụ và biên lợi nhuận gộp giảm 1,8 điểm % so với Q3/2022.
Ngành Thực phẩm kéo dài xu hướng giảm với lợi nhuận ròng Q2/Q3/Q4 năm 2022 giảm 7,7%/13,8%/80,7% so với cùng kỳ. Lợi nhuận ròng Q4/22 của ngành Thực phẩm giảm mạnh là do MSN ghi nhận lợi nhuận ròng Q4/22 giảm 93,1% so với cùng kỳ khi ghi nhận khoản thu nhập bất thường đáng kể (~5.700 tỷ đồng) trong Q4/21.
Các công ty chứng khoán tiếp tục ghi nhận lợi nhuận ròng sụt giảm mạnh 96,6% so với cùng kỳ trong Q4/22 do thanh khoản thị trường chứng khoán giảm 58,4% so với cùng kỳ.
Như vậy, các công ty Thép, Sản xuất thực phẩm và chứng khoán cùng nhau làm tăng trưởng lợi nhuận toàn thị trường giảm 24,8 điểm % trong Q4/22.
Ngân hàng và Dịch vụ Tiện ích là điểm sáng lợi nhuận ròng các ngân hàng niêm yết Q4/22 tăng 23,2% so với cùng kỳ, nhờ đóng góp của VCB (+53,9%) và BID (+88,8%) do giảm chi phí dự phòng.
Ngành Dịch vụ Tiện ích ghi nhận mức tăng trưởng lợi nhuận ròng cao nhất toàn thị trường trong Q4/22 (+30,4%), xấp xỉ mức tăng Q3/22 nhưng giảm mạnh so với đỉnh tăng trưởng trong Q2/22 (+88,7%). GAS là động lực chính, đóng góp 34,2 điểm % vào tăng trưởng lợi nhuận ròng Q4/22 của ngành Tiện ích.
Ngân hàng và Tiện ích cùng nhau đóng góp 7,6 điểm % vào tăng trưởng lợi nhuận ròng Q4/22 của thị trường. Bất chấp thời điểm khó khăn, lợi nhuận Q4/22 của các doanh nghiệp Bất động sản vẫn tăng 0,9% so với cùng kỳ nhờ VIC (Q4/22: 1.559 tỷ đồng so với Q4/21: -5.964 tỷ đồng) và VRE (+549% so với cùng kỳ).
BIÊN LỢI NHUẬN GỘP TOÀN THỊ TRƯỜNG TĂNG NHẸ
Lợi nhuận ròng Q4/22 của VN30 giảm 11,5% so với cùng kỳ, tốt hơn so với của nhóm vốn hóa lớn (-18,4% so với cùng kỳ). Lợi nhuận của nhóm vốn hóa lớn sụt giảm nhiều hơn so với VN30 trong Q4/22 chủ yếu là do BSR (-44,2%), DPM (-30,2%) và DGC (-20,8%).
Lợi nhuận ròng Q4/22 của nhóm vốn hóa vừa và nhỏ giảm mạnh lần lượt 64,8% và 83,3% do nhu cầu xuất khẩu yếu, biên lợi nhuận sụt giảm và lỗ tỷ giá.
Lợi nhuận ròng của VN30 tăng 4,9% so với cùng kỳ trong năm 2022. 16 doanh nghiệp trong VN30 có tăng trưởng lợi nhuận ròng dương trong năm 2022, dẫn đầu là VRE (108%), BID (72%) và GAS (70%).
VRE đã hoạt động bình thường trở lại trong năm 2022 so với việc đóng cửa/giãn cách xã hội vào năm 2021 do sự bùng phát của Covid-19. BID ghi nhận mức tăng trưởng lợi nhuận ròng mạnh mẽ trong năm 2022 nhờ giảm bớt chi phí trích lập dự phòng trong khi vẫn có mức tăng trưởng thu nhập lãi thuần vững chắc. GAS đã ghi nhận (1) sản lượng tiêu thụ khí khô tăng 7,8% so với cùng kỳ trong năm 2022 nhờ huy động điện khí phục hồi sau đại dịch và (2) giá khí bùng nổ (giá dầu FO của Singapore: +30% svck).
Đáng chú ý, VIC ghi nhận lợi nhuận ròng trong năm 2022 là 8.352 tỷ đồng so với lỗ ròng 2.771 tỷ đồng trong năm 2021.
Ở chiều ngược lại, năm 2022, lợi nhuận ròng của HPG giảm mạnh 75% chủ yếu do than coke đầu vào tăng gần 140% trong năm 2022 và sản lượng tiêu thụ giảm 6,5% trong bối cảnh thị trường bất động sản gặp nhiều thách thức. MSN (-58%) ghi nhận lợi nhuận ròng ở mức cao trong năm 2021 (8.563 tỷ đồng) nhờ khoản thu nhập bất thường lớn (~5.700 tỷ đồng).
PLX (-48%) phải tăng tỷ trọng nguồn nhập khẩu để đảm bảo xăng dầu cho thị trường trong nước 9T22 trong bối cảnh thị trường xăng dầu thế giới không thuận lợi và chi phí kinh doanh xăng dầu tăng cao.
Đáng chú ý, VJC ghi nhận khoản lỗ 2.172 tỷ đồng trong năm 2022 (2021: +95 tỷ đồng) do (1) không ghi nhận lợi nhuận từ Bán và Cho thuê lại; cũng như các khoản thu nhập tài chính khác như năm 2021 và (2) giá nguyên liệu tăng cao.
Biên Lợi nhuận gộp thị trường (không bao gồm ngân hàng) Q4/22 tăng nhẹ 0,1 điểm % so với quý trước, lần đầu tiên kể từ Q3/21 với sự cải thiện lớn nhất đến từ ngành Dịch vụ tiện ích (+3,6 điểm %), Bất động sản (+2,8 điểm %) và Dầu khí (+2,5 điểm %).
Tỷ lệ đòn bẩy của thị trường (không bao gồm ngân hàng) tiếp tục kéo dài xu hướng giảm kể từ Q1/22, là kết quả của việc mua lại trái phiếu doanh nghiệp và nhu cầu huy động vốn yếu do các doanh nghiệp có xu hướng trì hoãn việc mở rộng kinh doanh. Lãi suất cao cũng làm tăng chi phí vốn vay trung bình trên thị trường từ 5,8% lên 5,9% trong Q4/22.