July 29, 2025 | 21:49 GMT+7

Việt Nam trong tiến trình chuyển dịch năng lượng: Sẵn sàng ở mức nào?

Chu Khôi -

Tại Diễn đàn “Công nghệ Năng lượng trong kỷ nguyên mới” do Tạp chí Kinh tế Việt Nam/VnEconomy tổ chức ngày 29/7/2025, Tiến sĩ Nguyễn Anh Tuấn, Ủy viên thường trực Ban Chấp hành Hiệp hội Năng lượng Việt Nam, nhận định: “Triển vọng phát triển năng lượng mới và năng lượng tái tạo của Việt Nam là rất tích cực. Tuy nhiên, để hiện thực hóa mục tiêu đến năm 2050, chúng ta phải giải quyết đồng bộ các rào cản về cơ chế, hạ tầng, công nghệ và con người”...

TS. Nguyễn Anh Tuấn trình bày tham luận tại Diễn đàn “Công nghệ Năng lượng trong kỷ nguyên mới”. Ảnh Tri Phong.
TS. Nguyễn Anh Tuấn trình bày tham luận tại Diễn đàn “Công nghệ Năng lượng trong kỷ nguyên mới”. Ảnh Tri Phong.

Theo TS.Nguyễn Anh Tuấn, để đánh giá mức độ sẵn sàng của một quốc gia trong phát triển năng lượng mới và năng lượng tái tạo, thế giới hiện đang sử dụng nhiều bộ công cụ khác nhau, mỗi công cụ lại phục vụ cho những mục đích đánh giá riêng biệt. Trong đó, có thể kể đến công cụ RRA – Đánh giá mức độ sẵn sàng về năng lượng tái tạo (Renewables Readiness Assessment), là một bộ công cụ toàn diện đánh giá khả năng sẵn sàng trên nhiều khía cạnh khác nhau.

Bên cạnh đó, Báo cáo sẵn sàng đầu tư vào năng lượng bền vững (Readiness for Investment in Sustainable Energy – RISE) do Ngân hàng Thế giới (WB) xây dựng lại tập trung vào việc đánh giá môi trường pháp lý và quy định, tạo điều kiện cho đầu tư vào năng lượng bền vững.

Ngoài ra, một công cụ quan trọng khác là Chỉ số Chuyển dịch Năng lượng (Energy Transition Index – ETI), đánh giá mức độ sẵn sàng tổng thể của các quốc gia trong tiến trình chuyển đổi sang năng lượng sạch, trong đó có nội dung lớn liên quan đến năng lượng tái tạo.

KHUNG PHÁP LÝ VÀ CHÍNH SÁCH ƯU ĐÃI ĐẦU TƯ VÀO NĂNG LƯỢNG “SẠCH”

TS.Nguyễn Anh Tuấn cho hay các đánh giá quốc tế hiện nay thường dựa trên 5 trụ cột chính: chính sách, thể chế, năng lực thị trường, mô hình phát triển và khả năng tích hợp năng lượng tái tạo vào hệ thống hiện hành. Tuy Việt Nam chưa đạt mức độ cao nhất trong các bảng xếp hạng quốc tế về năng lượng tái tạo, nhưng cũng không còn ở vị trí thấp. Các chính sách hiện hành, trong đó nổi bật là Quy hoạch điện VIII điều chỉnh, thể hiện rõ định hướng ưu tiên phát triển các nguồn năng lượng mới và năng lượng tái tạo, đặc biệt là điện gió và điện mặt trời.

TS.Nguyễn Anh Tuấn trình bày báo cáo nghiên cứu tại Diễn đàn. Ảnh: Chu Khôi.
TS.Nguyễn Anh Tuấn trình bày báo cáo nghiên cứu tại Diễn đàn. Ảnh: Chu Khôi.

TS.Nguyễn Anh Tuấn cho rằng các công cụ đánh giá này cần được cập nhật thường xuyên để phản ánh đúng mức độ sẵn sàng theo thời gian, tránh trở thành những chỉ số “chết”.

Đề cập về Khung pháp lý và các chính sách ưu đãi đầu tư vào năng lượng mới và năng lượng tái tạo tại Việt Nam, TS.Nguyễn Anh Tuấn cho biết Việt Nam đã và đang ban hành nhiều chính sách khuyến khích phát triển năng lượng tái tạo. Cụ thể: Miễn tiền sử dụng khu vực đất hoặc biển trong ba năm đầu xây dựng dự án, và giảm 50% mức thu trong chín năm tiếp theo; bảo đảm sản lượng điện hợp đồng tối thiểu đạt 70% trong thời gian trả nợ gốc, tối đa là 12 năm; ưu tiên đấu nối lưới điện cho các dự án năng lượng tái tạo có tích hợp hệ thống lưu trữ điện; áp dụng ưu đãi đặc biệt cho các dự án sản xuất điện hoàn toàn từ hydro xanh hoặc amoniac xanh.

Hiện trạng các loại hình năng lượng tái tạo tại Việt Nam. Nguồn: TS. Nguyễn Anh Tuấn.
Hiện trạng các loại hình năng lượng tái tạo tại Việt Nam. Nguồn: TS. Nguyễn Anh Tuấn.

Cùng với đó, Nhà nước ưu tiên đầu tư cho nghiên cứu và phát triển, ứng dụng công nghệ mới, trong đó bao gồm sản xuất tấm pin quang năng, tua-bin gió phù hợp điều kiện khí hậu Việt Nam. Đáng chú ý, từ tháng 7/2024, một nghị định mới đã cho phép thực hiện thỏa thuận mua bán điện trực tiếp (Direct Power Purchase Agreement – DPPA), giúp các nhà sản xuất điện tái tạo bán điện trực tiếp cho các khách hàng tiêu dùng lớn. Theo thống kê, có hơn 1.500 khách hàng đủ điều kiện tham gia cơ chế này.

Tuy nhiên, TS.Nguyễn Anh Tuấn cho hay các chính sách giá điện trước đây, cụ thể là biểu giá hỗ trợ cố định (Feed-in Tariff – FiT) trong giai đoạn 2018–2023, tuy đã thúc đẩy sự phát triển nhanh chóng của điện mặt trời và điện gió, nhưng cũng tạo áp lực tài chính lớn cho Tập đoàn Điện lực Việt Nam, với mức lỗ hơn 1 tỷ USD vào năm 2023. Việc điều chỉnh hồi tố giá mua điện của 173 dự án đã làm dấy lên lo ngại về tính ổn định và niềm tin của nhà đầu tư.

TIỀM NĂNG VÀ HIỆN TRẠNG CÁC NGUỒN NĂNG LƯỢNG TÁI TẠO

TS.Nguyễn Anh Tuấn cho biết theo thống kê, đến năm 2024, Việt Nam đã đạt công suất lắp đặt điện mặt trời khoảng 16,5 gigawatt, chiếm 25% tổng công suất phát điện cả nước. Trong đó, có hơn 103.000 dự án điện mặt trời mái nhà với tổng công suất trên 9.500 MW. Các dự án lớn tiêu biểu gồm Dầu Tiếng 1, 2, 3 (420 MWp), Phù Mỹ (330 MWp), và BIM (330 MWp).

Về điện gió, công suất đã tăng mạnh từ gần như bằng 0 năm 2018 lên khoảng 6.000 MW vào năm 2023. Tiềm năng điện gió được đánh giá rất cao, với khoảng 221 GW trên bờ và tới 6.000 GW ngoài khơi.

TS.Nguyễn Anh Tuấn: "Tiềm năng phát triển thủy điện gần như đã được khai thác hết". Ảnh: Tri Phong.
TS.Nguyễn Anh Tuấn: "Tiềm năng phát triển thủy điện gần như đã được khai thác hết". Ảnh: Tri Phong.

Nguồn thủy điện hiện vẫn là năng lượng carbon thấp lớn nhất, chiếm khoảng 31% sản lượng điện cả nước với công suất lắp đặt 23.664 MW, từ các nhà máy lớn như Sơn La, Hòa Bình và Lai Châu. Tuy nhiên, tiềm năng phát triển thủy điện gần như đã được khai thác hết.

Điện sinh khối vẫn còn khiêm tốn, với công suất nối lưới cuối năm 2022 đạt khoảng 350 MW, tương đương 0,42% tổng công suất của toàn ngành điện. Mặc dù, tiềm năng có thể lên tới 60 triệu tấn chất thải nông nghiệp mỗi năm, nhưng việc phát triển điện sinh khối vẫn còn gặp nhiều khó khăn về công nghệ và thị trường.

TS.Nguyễn Anh Tuấn cho biết trong số 85 dự án chuyển tiếp đối với năng lượng tái tạo, đến nay đã có 81 dự án (tổng công suất gần 4.600 MW) nộp hồ sơ đàm phán giá điện; 63 dự án đã hoàn tất đàm phán và ký tắt hợp đồng; 29 dự án (tương đương hơn 1.500 MW) đã hoàn tất thủ tục vận hành thương mại.

Đề cập về hạ tầng lưới điện và lưu trữ năng lượng, TS.Nguyễn Anh Tuấn cho rằng hệ thống truyền tải điện của Việt Nam hiện nay, dù hiện đại so với trình độ phát triển, vẫn chưa theo kịp tốc độ tăng trưởng của điện tái tạo. Năm 2020, sản lượng điện mặt trời bị cắt giảm lên tới 364 GWh, chiếm từ 15% đến 20% sản lượng của các nhà máy điện mặt trời. Mặc dù,hiện trạng này đã dần được cải thiện, việc đầu tư vào lưới điện thông minh và hiện đại hóa hạ tầng vẫn là một yêu cầu cấp thiết.

Theo ông Tuấn, tính đến năm 2024, Việt Nam đã lắp đặt hơn 2 triệu công tơ điện thông minh, chủ yếu tại Hà Nội và Thành phố Hồ Chí Minh. Tuy nhiên, sự tham gia của khu vực tư nhân vào đầu tư lưới điện – đặc biệt là lưới điện từ 220 kilovolt trở xuống – còn hạn chế. Nếu được khuyến khích, tư nhân hoàn toàn có thể giúp giải quyết nhanh các nút thắt về hạ tầng truyền tải.

Về lưu trữ năng lượng, Việt Nam đang hướng đến mục tiêu đạt công suất từ 10.000 đến 16.000 MW. Một số giải pháp đang được nghiên cứu và thử nghiệm, như hệ thống lưu trữ của VinFast Energy tại Nha Trang hay các thỏa thuận ghi nhớ về phát triển thủy điện tích năng. “Tuy nhiên, các nhà máy như Bác Ái (dự kiến vận hành năm 2029), Phước Hòa, Đông Phú Yên, Đơn Dương...  đến nay vẫn chưa xác định được nhà đầu tư cụ thể”, ông Tuấn nói.

Ông Tuấn chỉ ra một thách thức lớn, đó là chưa có khung pháp lý rõ ràng cho các hệ thống lưu trữ năng lượng: liệu nên coi đó là một nguồn phát điện độc lập hay chỉ là hệ thống chuyển hóa, lưu trữ và hoàn trả năng lượng. Nếu đầu tư vào lưu trữ năng lượng thì giá thành đầu tư cao, tổn thất trong quá trình lưu trữ lên tới 30-40%,do đó đòi hỏi cần thiết lập cơ chế giá mua – bán rõ ràng và hiệu quả.

TS.Nguyễn Anh Tuấn cho biết Việt Nam hiện dành khoảng 0,4% tổng sản phẩm quốc nội (GDP) cho nghiên cứu và phát triển (R&D) năng lượng mới và năng lượng tái tạo, thấp hơn đáng kể so với các nước trong khu vực. Mục tiêu là nâng tỷ lệ này lên 2% vào năm 2030. Tuy nhiên, câu hỏi đặt ra là: Liệu mức tăng này đã đủ để đáp ứng các yêu cầu phát triển bền vững hay chưa, khi mà các nước đang phát triển khác đang chi tiêu nhiều hơn cho lĩnh vực này?

Vốn tài chính và xu hướng đầu tư vào năng lượng tái tạo tại Việt Nam. Nguồn: TS. Nguyễn Anh Tuấn.
Vốn tài chính và xu hướng đầu tư vào năng lượng tái tạo tại Việt Nam. Nguồn: TS. Nguyễn Anh Tuấn.

Theo ông Tuấn, hiện nay, số lượng tổ chức nghiên cứu – phát triển trong ngành năng lượng còn rất hạn chế. Chủ yếu là một số viện nghiên cứu thuộc Bộ Công Thương và các trường đại học kỹ thuật. Các trung tâm R&D về tua-bin gió, hệ thống lưu trữ, tấm pin mặt trời, hydro xanh vẫn còn thiếu hụt về năng lực và quy mô.

“Nguồn nhân lực kỹ thuật phục vụ cho năng lượng tái tạo cũng là một điểm yếu lớn. Dù có một số trường đại học chuyên ngành như Trường Đại học Bách khoa Hà Nội, Trường Đại học Điện lực,… nhưng số lượng kỹ sư, kỹ thuật viên tốt nghiệp vẫn chưa đáp ứng được nhu cầu thực tế, đặc biệt trong các khâu như bảo trì, vận hành, và tích hợp hệ thống”, ông Tuấn nêu vấn đề.

Bên cạnh đó, nguồn nhân lực phục vụ cho lĩnh vực tài chính xanh – một yếu tố ngày càng quan trọng trong thu hút vốn đầu tư – cũng đang thiếu hụt cả về số lượng và chất lượng.

Đề cập nhu cầu đầu tư và khả năng huy động vốn, TS.Nguyễn Anh Tuấn khẳng định: "Nhu cầu đầu tư cho phát triển năng lượng tái tạo tại Việt Nam là vô cùng lớn. Nếu chỉ dựa vào nguồn lực công thì rất khó để đạt được các mục tiêu đã đặt ra. Do đó, Việt Nam cần tích cực huy động nguồn vốn từ khu vực tư nhân và các đối tác quốc tế.

Tuy nhiên, sự thiếu ổn định trong cơ chế giá điện, ví dụ như việc điều chỉnh giá hồi tố các dự án điện tái tạo, đang làm suy giảm niềm tin của nhà đầu tư. Bên cạnh đó, tình trạng cắt giảm công suất điện tái tạo cũng là một vấn đề cần được điều chỉnh bằng các tiêu chí cụ thể trong tương lai.

CƠ HỘI VÀ TRIỂN VỌNG PHÁT TRIỂN NĂNG LƯỢNG TÁI TẠO

Theo TS.Nguyễn Anh Tuấn, Việt Nam có những lợi thế chiến lược đáng kể để phát triển năng lượng tái tạo: Tài nguyên thiên nhiên dồi dào, đặc biệt là nắng và gió; Cam kết chính trị mạnh mẽ từ Chính phủ thông qua các văn bản như Quy hoạch điện VIII, Luật Điện lực 2024, Nghị định số 58 năm 2025; Nhu cầu tiêu thụ điện trong nước tăng nhanh, trung bình khoảng 10% mỗi năm; chi phí công nghệ, đặc biệt là tấm pin mặt trời và tua-bin gió, đang giảm nhanh chóng. Bên cạnh đó, vị trí địa lý thuận lợi cho hợp tác quốc tế và xuất khẩu điện gió ngoài khơi, hướng đến các thị trường như Campuchia, Singapore và Malaysia.

Cơ hội và triển vọng năng lượng tái tạo tại Việt Nam. Nguồn: TS. Nguyễn Anh Tuấn.
Cơ hội và triển vọng năng lượng tái tạo tại Việt Nam. Nguồn: TS. Nguyễn Anh Tuấn.

Tầm nhìn dài hạn của Việt Nam đến năm 2050 là đạt phát thải ròng bằng 0, nâng tỷ lệ năng lượng tái tạo trong cơ cấu điện lên 74–75%, phát triển điện hạt nhân với tổng công suất 14 GW và hoàn thiện hạ tầng hydro đạt quy mô từ 10 đến 20 triệu tấn mỗi năm.

“Một mục tiêu rất quan trọng là đến năm 2030, đạt tỷ lệ 50% hộ dân sử dụng điện mặt trời mái nhà tự sản tự tiêu. Đây là một tham vọng lớn, đòi hỏi phải tháo gỡ hàng loạt vướng mắc trong cơ chế, chính sách và công nghệ”, ông Tuấn nhấn mạnh.

TS.Nguyễn Anh Tuấn đề xuất 5 nhóm giải pháp cần thực hiện để nâng cao mức độ sẵn sàng của Việt Nam trong phát triển năng lượng mới và năng lượng tái tạo.

Thứ nhất, hoàn thiện chính sách và cơ chế giá điện ổn định. Cơ chế giá là yếu tố then chốt thúc đẩy hay kìm hãm phát triển năng lượng tái tạo. Kinh nghiệm vừa qua cho thấy sự thay đổi đột ngột về giá gây tác động tiêu cực đến thị trường. Do đó, nên triển khai đấu giá cạnh tranh, hoàn thiện tiêu chuẩn phân loại xanh quốc gia.

Thứ hai, đầu tư vào hạ tầng truyền tải và lưu trữ năng lượng: Cần ưu tiên nâng cấp lưới điện, khuyến khích phát triển hệ thống lưu trữ năng lượng quy mô lớn và cải thiện năng lực dự báo năng lượng tái tạo.

Thứ ba, thúc đẩy nghiên cứu, phát triển công nghệ và chuỗi cung ứng trong nước: Khuyến khích sự phối hợp giữa các viện nghiên cứu, trường đại học và doanh nghiệp, tập trung vào các công nghệ then chốt.

Thứ tư, phát triển nguồn nhân lực chất lượng cao: Mở rộng đào tạo, phát triển kỹ năng thực hành, kết hợp lý thuyết và thực tiễn, đặc biệt trong lĩnh vực sinh khối và năng lượng sạch.

Thứ năm, tối ưu hóa tài chính xanh: Cần tận dụng vốn JETP vào phát triển năng lượng tái tạo. Mặt khác, nên thu hút tư nhân qua DPPA (hình thức mua bán điện trực tiếp giữa đơn vị phát điện và khách hàng, không thông qua đơn vị trung gian như EVN) và các mô hình đối tác công – tư (PPP) vào phát triển năng lượng tái tạo.

Attention
The original article is written and published on VnEconomy in Vietnamese only. To read the full article, please use the Google Translate tool below to translate the content into your preferred language.
VnEconomy is not responsible for the translation.

Google translate