Bà Mai bị khởi tố từ năm 2014. Trải qua gần 8 năm, sau nhiều phiên tòa tranh cãi về trách nhiệm dân sự, tình tiết vụ án dần được sáng tỏ.
Cáo trạng thể hiện, UAC được cổ phần hóa từ năm 2005, với tỷ lệ vốn góp của nhà nước là 51% do Tổng công ty đầu tư phát triển hạ tầng đô thị (UDIC) quản lý. Bị cáo Mai giữ chức vụ Chủ tịch HĐQT giai đoạn năm 2009-2013.
Từ năm 2010, do làm ăn thua lỗ, bị cáo dùng nhiều thủ đoạn khác nhau như hứa hẹn xin cấp giấy phép thay đổi quy sử dụng đất xây dựng chung cư, xin giấy phép xây dựng nhà, thỏa thuận vay vốn vay vốn để được mua căn hộ tại dự án Tổ hợp chung cư cao tầng và dịch vụ khu đất N04- Khu đô thị Đông Nam, quận Cầu Giấy, Hà Nội (viết tắt là dự án N04).
Nhận tiền của các bị hại song bị cáo Mai không thực hiện như cam kết mà chiếm đoạt cá nhân.
CHIẾM ĐOẠT HƠN 26 TỶ ĐỒNG BẰNG HÌNH THỨC HUY ĐỘNG VỐN
Theo cáo trạng, năm 2008, UAC liên danh với UDIC, CTCP Đầu tư xây dựng công nghiệp (ICC) và CTCP thương mại quốc tế và tư vấn đầu tư (Invecon) để thực hiện dự án N04. Trong đó UAC góp 25% vốn. Dự án được phê duyệt xây dựng với tổng mức đầu tư 2.070 tỷ đồng.
Ngày 7/9/2011, Đại hội đồng cổ đông của UAC mới ban hành Nghị quyết thông qua việc vay vốn để đầu tư dự án. Mặc dù HĐQT công ty không có chủ trương huy động vốn bên ngoài nhưng bà Mai đã lợi dụng danh nghĩa Chủ tịch HĐQT tự ý lập, ký thỏa thuận vay vốn, hợp đồng huy động vốn với các cá nhân bên ngoài. Bị cáo còn lập các phiếu thu giả, giấy nhận tiền, giấy nhận cọ, giả chữ ký kế toán, thủ quỹ trên các phiếu thu để chiếm đoạt hơn 26,3 tỷ đồng của 13 người.
Số tiền trên, bị cáo không đưa vào hệ thống sổ sách quản lý, không nhập tiền vào quỹ công ty mà sử dụng chi tiêu cá nhân.
Quá thời hạn cam kết, 13 khách hàng không mua được nhà, đề nghị được rút tiền nhưng bị cáo lẩn tránh. Đến khi làm việc với công ty, họ mới biết toàn bộ giấy tờ là giả mạo nên tố cáo sai phạm của nữ chủ tịch HĐQT.
Xác minh tại Công ty UAC xác định, do hoạt động kinh doanh không hiệu quả, gặp khó khăn tài chính nên ngày 16/1/2013, UAC đã thoái toàn bộ vốn góp tại dự án N04.
Công ty rà soát lại những cá nhân đã ký hợp đồng góp vốn, nộp tiền vào công ty thì xác định có 2 khách hàng đã nộp hơn 3,5 tỷ đồng. Công ty đã trả lại tiền hai khách hàng này.
Lời khai các bị hại thể hiện, họ có nhu cầu về nhà ở nên tìm hiểu thông tin quảng cáo trên sàn bất động sản hoặc được người quen giới thiệu. Họ được bà Mai giới thiệu, UAC có chủ trương bán các căn hộ tại dự án N04 cho các cá nhân có nhu cầu, nhưng do chưa đủ điều kiện mua bán (vì chưa thi công xong phần móng) nên chỉ được ký hợp đồng góp vốn.
Các bị hại cho rằng, họ tin tưởng công ty nên đã đồng ý đặt tiền. Bà Mai trực tiếp ký hợp đồng, thu tiền tại phòng làm việc và cấp phiếu thu có đầy đủ dấu, chữ ký “Đã thu tiền” hoặc giấy nhận tiền.
Quá trình điều tra, bà Mai thừa nhận đưa thông tin gian dối để chiếm đoạt tiền của các bị hại. Chỉ có 2 trường hợp nộp tiền là bị cáo nộp vào tài khoản công ty.
Bị cáo thừa nhận tự mình thực hiện hành vi phạm tội, tự soạn hợp đồng, mua phiếu thu tiền ở cửa hàng văn phòng phẩm. Ban đầu, bị cáo giả chữ ký của kế toán, thủ quỹ. Sau đó bị cáo tự đặt làm con dấu, chữ ký để đóng đấu. Khi bị phát hiện, bị cáo đã vứt bỏ con dấu trên.
Ngoài hành vi trên, bị cáo còn chiếm đoạt số tiền gần 628 triệu đồng của bà Trần Thị Lan H. nhờ xin thay đổi quy hoạch và mục đích sử dụng đất xây dựng chung cư, chiếm đoạt 1 tỷ đồng của bà Bùi Thị Mỹ H. để xin thay đổi giấy phép xây dựng nhà.
Tổng số tiền bị cáo chiếm đoạt của 15 bị hại là hơn 27,9 tỷ đồng.
LÀM RÕ AI PHẢI ĐỀN TIỀN KHÁCH HÀNG
Vụ án này trải qua nhiều cấp xét xử. Lần thứ nhất xét xử sơ thẩm vào năm 2016, TAND TP Hà Nội đã làm rõ bị cáo chiếm đoạt hơn 29,3 tỷ đồng và tuyên buộc Công ty UAC có nghĩa vụ bồi thường hơn 29,3 tỷ đồng cho các bị hại nộp tiền mua nhà.
Sau phiên tòa trên, công ty kháng cáo quyết định trên. TAND cấp cao tại Hà Nội đã quyết định hủy án để làm rõ một số khoản tiền là nợ hay góp vốn…
Lần thứ hai xét xử sơ thẩm vào năm 2019, tòa làm rõ số tiền bị cáo chiếm đoạt là hơn 26 tỷ đồng và tiếp tục buộc công ty phải có trách nhiệm bồi thường.
Sau đó vụ án tiếp tục bị hủy án để điều tra lại và làm rõ các tình tiết.
Lần này, vụ án được đưa ra xét xử sơ thẩm lần thứ ba. Ngoài trách nhiệm hình sự, Hội đồng xét xử cũng tuyên buộc bị cáo Mai có trách nhiệm hoàn trả số tiền hơn 27,9 tỷ đồng cho các bị hại.