Việt Nam đang thực hiện chiến lược chuyển đổi số quốc gia, trong đó một số lĩnh vực công nghệ đang phát triển nhanh chóng như AI, IoT, Điện toán đám mây, Dữ liệu lớn, công nghệ 5G, 6G ... tất cả đều trên nền tảng quan trọng, không thể thiếu đó là vi mạch bán dẫn.
Chính phủ Việt Nam cũng đã xác định phát triển ngành Công nghiệp vi mạch bán dẫn là mũi nhọn, để thực hiện thành công chiến lược này ngoài chiến lược và chính sách phát triển đúng; đầu tư thích đáng, có trọng tâm, trọng điểm thì phát triển nguồn nhân lực là yêu cầu cấp bách.
Hiện nay, Chính phủ đặc biệt quan tâm việc đẩy mạnh hợp tác đầu tư, phát triển ngành công nghiệp vi mạch bán dẫn ở Việt Nam, xây dựng đề án phát triển nguồn nhân lực chất lượng cao với mục tiêu hình thành đội ngũ 50.000 kỹ sư cho đến năm 2030.
XÂY DỰNG CHƯƠNG TRÌNH ĐÀO TẠO MỚI HAY RA ĐỜI MỘT NGÀNH ĐÀO TẠO MỚI “KHÔNG ĐƠN GIẢN”
Theo Thứ trưởng Bộ Giáo dục và Đào tạo Hoàng Minh Sơn, nhân lực cho ngành công nghiệp bán dẫn đòi hỏi nhiều công nghệ và lĩnh vực đào tạo đa dạng. Một số lĩnh vực cần các cấp độ trình độ khác nhau như kỹ sư, thạc sĩ hoặc tiến sĩ. Cơ cấu nhân lực phụ thuộc nhiều vào mức độ đầu tư ở Việt Nam. Ví dụ, ngành sản xuất chưa nhận được nhiều đầu tư, nhưng các lĩnh vực đóng gói, kiểm thử hoặc thiết kế lại có thể phát triển mạnh.
“Chúng ta cần dự đoán những xu hướng này. Đây là vấn đề về sự cân bằng giữa nhân lực và đầu tư, tương tự như bài toán giữa con gà và quả trứng”, Thứ trưởng Hoàng Minh Sơn nói.
Thứ trưởng Hoàng Minh Sơn cũng cho rằng các doanh nghiệp nước ngoài chỉ đầu tư vào Việt Nam khi thấy được nguồn nhân lực chất lượng. Nhưng để thu hút sinh viên theo học và phát triển chương trình đào tạo mạnh mẽ, cơ sở đào tạo cần có thị trường tiềm năng. Trong khi đó, việc xây dựng chương trình đào tạo mới hay ra đời một ngành đào tạo mới “không đơn giản”.
Chẳng hạn, một ngành đào tạo mới ra đời khi ngành đó phát triển quá mạnh và mở rộng về phạm vi kiến thức, nền tảng khoa học dẫn đến sự phân nhánh thành một ngành mới. Hoặc ngành đào tạo mới là sự kết hợp hai hoặc ba ngành hiện tại. Tuy nhiên, việc kết hợp này phải mang tính hữu cơ, không chỉ đơn thuần là sự tổng hợp của vài ngành khác nhau.
Ngoài ra, khi ra đời một ngành đào tạo mới thì phải tính đến câu chuyện giáo viên, giảng viên. Liệu ngành mới sẽ có giảng viên chuyên ngành riêng hay vẫn dựa vào các giảng viên hiện tại dạy về mạch điện, điện tử, hoặc thiết kế? Và nếu là ngành mới hoàn toàn, có bao nhiêu trường có khả năng đào tạo?
Thứ trưởng Hoàng Minh Sơn cho rằng các trường nên bắt đầu từ việc xây dựng chương trình đào tạo, bao gồm chuẩn đầu ra, môn học cụ thể và nền tảng kiến thức, trước khi xác định được ngành.
"Chúng ta cần hiểu rằng, thiết kế vi mạch thường bắt nguồn từ các ngành kỹ thuật điện điện tử hoặc kỹ thuật điện tử viễn thông. Vậy còn kỹ thuật máy tính thì sao?" Thứ trưởng Hoàng Minh Sơn đặt câu hỏi.
35/300 TRƯỜNG ĐÃ CÓ CHƯƠNG TRÌNH ĐÀO TẠO LIÊN QUAN TỚI VI MẠCH BÁN DẪN
Mới đây, tại Hội thảo “Chương trình đào tạo cho ngành Công nghiệp Vi mạch bán dẫn đến năm 2030 - Thách thức và giải pháp”, TS. Trần Đức Lai, Chủ tịch Hội Vô tuyến - Điện tử Việt Nam cho biết việc tập trung đào tạo kỹ sư cho ngành công nghiệp bán dẫn là một hướng đi chiến lược, có yếu tố quyết định để có thể tận dụng cơ hội tiếp cận, chuyển giao công nghệ, thúc đẩy sự phát triển kinh tế nhanh, bền vững, đồng thời cũng là yếu tố quan trọng để thực hiện chiến lược Make-in-Việt Nam.
Hiện nay, nhận thức được vấn đề này, nhiều trường trên toàn quốc (35/300 trường) có chương trình đào tạo liên quan tới vi mạch bán dẫn. Tuy vậy, trong công nghiệp vi mạch bán dẫn có rất nhiều nội dung liên quan như: thiết kế, sản xuất, đóng gói, kiểm thử, hỗ trợ ứng dụng…
“Nhiều trường đã có các ngành như: Điện tử-Viễn thông, Kỹ thuật máy tính, Tự động hóa, Điện... các ngành này đều có các chương trình đào tạo gần với thiết kế, vậy các ngành này có đáp ứng được yêu cầu đào tạo cho vi mạch, công nghệ bán dẫn hay phải có mã ngành riêng, độc lập, hoặc trên cơ sở các mã ngành đã có, các trường tự thiết kế các chương trình cho phù hợp với thiết kế vi mạch bán dẫn?”, TS. Trần Đức Lai đặt vấn đề đồng thời cho biết theo một số chuyên gia, hiện chương trình đào tạo vi mạch bán dẫn chưa được cập nhật, chưa được chuẩn hóa, chưa có mã ngành về thiết kế vi mạch hoặc công nghệ bán dẫn.
Theo TS. Trần Đức Lai, chiến lược đào tạo cho ngành công nghiệp vi mạch bán dẫn là đúng xu hướng, đáp ứng nhu cầu phát triển kinh tế xã hội của đất nước trong những thập kỷ tới, tuy nhiên đang có khó khăn trong thu hút sinh viên vào chuyên ngành hẹp này.
Vậy có cần các chính sách đặc thù để thu hút người học? Đồng thời có cần chính sách đặc thù để đào tạo đội ngũ giảng viên và chính sách đầu tư cơ sở vật chất cho các trường, đặc biệt là các phòng thí nghiệm, cơ chế đặc thù hợp tác giữa Nhà trường với doanh nghiệp cũng như như hợp tác, tiếp nhận chuyển giao công nghệ từ đối tác nước ngoài...
Để một kỹ sư có thể làm việc trong ngành vi mạch bán dẫn cần tới 6 năm học cả cơ bản và chuyên sâu, vì vậy Thứ trưởng Bộ Giáo dục và Đào tạo Hoàng Minh Sơn cho rằng cần có mô hình phù hợp mới tính đến phát triển chương trình đào tạo.
PGS.TS Nguyễn Phong Điền, Phó Giám đốc Đại học Bách khoa Hà Nội, nêu ra rằng dù các trường đại học lớn như Đại học Bách khoa Hà Nội và Đại học Bách khoa TP Hồ Chí Minh có kinh nghiệm trong việc đào tạo kỹ sư thiết kế vi mạch bán dẫn, thì vẫn cần tăng cường chia sẻ và hợp tác giữa các trường để đảm bảo chất lượng và số lượng nhân lực trước sự tăng trưởng nhu cầu và đầu tư từ các công ty nước ngoài. Cần có sự phối hợp chặt chẽ trong cách đào tạo, giảng dạy, nghiên cứu và thực hành cho lĩnh vực vi mạch.
Đề xuất đầu tiên của PGS.TS Nguyễn Phong Điền là xây dựng một chương trình đào tạo phù hợp với nhu cầu thực tế của các doanh nghiệp về số lượng và chất lượng. Các trường cần xác định các khối kiến thức và kỹ năng mà 50.000 kỹ sư vi mạch sẽ cần sau 4 năm đào tạo để làm việc trong các lĩnh vực cụ thể của ngành vi mạch bán dẫn.
Đặc biệt, sinh viên cần được thực hành và giảng viên cần có cơ hội nghiên cứu, vì đây là yếu tố quan trọng trong việc đào tạo nguồn nhân lực chất lượng cao. Vì thế, sự hợp tác giữa các bên liên quan, các ban ngành, và các doanh nghiệp lớn ở Hà Nội và TP Hồ Chí Minh là cần thiết.