Thông tin này được các chuyên gia chia sẻ tại Hội thảo Thúc đẩy triển khai chương trình hợp tác quốc gia Việt Nam – ILO về việc làm thỏa đáng 2022- 2026, do Bộ Lao động - Thương binh và Xã hội và Tổ chức Lao động quốc tế (ILO) tổ chức, ngày 25/10.
CHƯA ĐẢM BẢO VIỆC LÀM THỎA ĐÁNG
Tại hội thảo, bà Ingrid Christensen, Giám đốc Văn phòng Tổ chức Lao động quốc tế (ILO) tại Việt Nam, đánh giá chương trình việc làm thỏa đáng được thực hiện trên toàn cầu, trong đó Việt Nam là một điểm nhấn, nhằm tạo khung khổ để các bên hợp tác và thúc đẩy hơn nữa việc làm thỏa đáng trong mỗi nước, có sự cân nhắc với điều kiện kinh tế - xã hội cụ thể của từng quốc gia.
Trong khi đó, Vụ trưởng Vụ Hợp tác quốc tế, Bộ Lao động – Thương binh và Xã hội Lưu Quang Tuấn cũng nhấn mạnh rằng, việc làm thỏa đáng hướng tới mục tiêu không chỉ tạo ra việc làm nhiều hơn, mà còn phải tạo ra việc làm tốt hơn. Nghĩa là người lao động được làm việc trong điều kiện lao động tốt hơn, an toàn hơn, được bảo đảm an sinh xã hội, có năng suất và thu nhập cao hơn, thực hiện mục tiêu cân bằng giữa tăng trưởng kinh tế và xã hội.
Cho rằng, đảm bảo việc làm thỏa đáng là yêu cầu hết sức quan trọng, song bà Chu Thị Lê Anh, giảng viên Học viện Chính trị Quốc gia nhấn mạnh cần quan tâm nhiều hơn đến bảo đảm tính thỏa đáng trong việc làm ở khu vực phi chính thức.
Hiện nay, lao động khu vực phi chính thức vẫn chiếm tỷ trọng lớn trong cơ cấu thị trường lao động của Việt Nam (khoảng 68%), và có tác động mạnh mẽ đến câu chuyện phát triển và đảm bảo việc làm nói chung.
Thực trạng về việc làm trong khu vực phi chính thức cũng không đạt được các tiêu chí của việc làm thỏa đáng, bởi việc làm ở khu vực này chủ yếu có tính chất giản đơn, không đòi hỏi trình độ chuyên môn kỹ thuật, vì thế cũng đem lại thu nhập thấp cho người lao động.
“Người lao động phi chính thức thường ở thế yếu trong thương lượng để đảm bảo điều kiện làm việc cũng như cơ hội, yêu cầu nâng cao thu nhập. Điều đó dẫn đến hệ quả là người lao động trong khu vực phi chính thức có thu nhập thấp. Tỷ lệ lao động phi chính thức có mức thu nhập thấp hơn so với mức lương tối thiểu vùng lên đến 47%”, bà Lê Anh cho biết.
Bên cạnh đó, quyền, phương tiện, môi trường tại nơi làm việc của lao động phi chính thức cũng không được đảm bảo. Lí do là phần lớn chủ sử dụng lao động của họ thường là các cơ sở sản xuất kinh doanh nhỏ lẻ, cơ sở gia đình có quy mô tài chính tương đối hạn hẹp. Vì thế, việc trang bị cho người lao động trong môi trường làm việc chỉ ở mức cơ bản.
Thời gian làm việc cũng thường kéo dài, khi có đến hơn 35% lao động phi chính thức làm việc quá 48h/tuần, vượt quá quy định của Bộ luật Lao động; 10,18% phải làm từ 2 công việc trở lên để có thu nhập nuôi sống gia đình.
PHẦN LỚN LAO ĐỘNG PHI CHÍNH THỨC NẰM NGOÀI LƯỚI AN SINH
Đáng chú ý, rất ít lao động phi chính thức được bao phủ bởi lưới an sinh. Cụ thể, có đến 98% người lao động phi chính thức không tham gia bảo hiểm xã hội, điều này dẫn đến hệ thống hỗ trợ người lao động trong những trường hợp rủi ro, gặp biến cố trong quá trình lao động bị hạn chế rất nhiều.
Theo chuyên gia của Học viện Chính trị Quốc gia, bài học từ giai đoạn dịch Covid-19 đã thể hiện rõ, khi đó Chính phủ đã có nhiều chính sách hỗ trợ lao động bị ảnh hưởng, bao gồm cả nhóm lao động tự do, song lao động phi chính thức vướng quy định không có hợp đồng lao động, không có khai báo tại nơi cư trú, vì thế đã rất khó xác định được đối tượng, khiến việc nhận diện điều kiện để hỗ trợ rất hạn chế.
“Với những kết quả nghiên cứu như vậy, chúng tôi khẳng định việc làm trong khu vực phi chính thức đang không thỏa đáng. Người lao động trong khu vực này khó có thể tự đảm bảo những quyền lợi của mình, bởi không có căn cứ để được bảo vệ lương, cũng như các quyền lợi khác tại nơi làm việc”, bà Lê Anh nhấn mạnh.
Cụ thể, có hơn 60% lao động phi chính thức có thỏa thuận miệng về việc làm, 14% không có hợp đồng lao động. Chính vì không có giao kết hợp đồng bằng văn bản nên họ không được đảm bảo về mặt luật pháp trước những yếu tố khiến cho việc làm trở nên không thỏa đáng.
Vì vậy, để hỗ trợ tạo việc làm thỏa đáng hơn cho người lao động, các chuyên gia cho rằng, Chương trình nghị sự về việc làm thỏa đáng tại Việt Nam trong giai đoạn tới sẽ cần triển khai có trọng điểm, tập trung vào các ưu tiên hơn.
Bà Ingrid Christensen, Giám đốc Văn phòng ILO Việt Nam nói, trong chu kỳ hợp tác lần thứ 4 giai đoạn 2022 - 2026, ILO cùng Bộ Lao động – Thương binh và Xã hội và các đối tác và sẽ tiếp tục đặt trọng tâm vào 3 trụ cột và vấn đề ưu tiên là: Tăng trưởng kinh tế và thịnh vượng; an sinh xã hội và bảo vệ quyền lợi của người lao động; quản trị thị trường lao động.
Chương trình cũng phấn đấu đạt 10 kết quả cụ thể cần đạt được trong từng lĩnh vực, phù hợp với chiến lược phát triển bền vững của quốc gia cũng như Chương trình nghị sự về phát triển bền vững của Liên Hợp Quốc.
Ông Đào Quang Vinh, Nguyên Viện trưởng Viện Khoa học, Lao động và Xã hội (Bộ Lao động – Thương binh và Xã hội) nhấn mạnh thêm rằng, giai đoạn tới cần gỡ các vướng mắc về thể chế; xây dựng cơ sở dữ liệu; đào tạo nguồn nhân lực; cải cách an sinh xã hội để theo kịp các xu hướng mới. Đặc biệt, cần sửa đổi các luật có liên quan như Luật Việc làm, Bảo hiểm xã hội để gỡ các thủ tục hành chính còn gây cản trở…