Tại dự thảo Luật Việc làm (sửa đổi), Bộ Lao động – Thương binh và Xã hội tiếp tục bảo vệ quan điểm giữ nguyên mức hưởng trợ cấp thất nghiệp hằng tháng bằng 60% mức bình quân tiền lương tháng đã đóng, dù trước đó nhận được nhiều góp ý nên tăng mức hưởng lên 75%.
ĐỀ XUẤT TĂNG MỨC HƯỞNG TRỢ CẤP THẤT NGHIỆP
Luật hiện hành quy định mức hưởng trợ cấp thất nghiệp hằng tháng bằng 60% mức bình quân tiền lương tháng đóng bảo hiểm thất nghiệp của 6 tháng liền kề trước khi thất nghiệp, nhưng tối đa không quá 5 lần mức lương cơ sở đối với người lao động thuộc đối tượng thực hiện chế độ tiền lương do Nhà nước quy định.
Đối với người lao động đóng bảo hiểm thất nghiệp theo chế độ tiền lương do người sử dụng lao động quyết định, mức hưởng không quá 5 lần mức lương tối thiểu vùng.
Thời gian hưởng trợ cấp thất nghiệp được tính theo số tháng đóng bảo hiểm thất nghiệp. Người lao động đóng bảo hiểm thất nghiệp đủ 12 tháng đến đủ 36 tháng, thì được hưởng 3 tháng trợ cấp thất nghiệp. Sau đó, cứ đóng đủ thêm 12 thì được hưởng thêm 1 tháng trợ cấp thất nghiệp.
Mới đây, khi góp ý vào dự thảo Luật Việc làm (sửa đổi), Tổng Liên đoàn Lao động Việt Nam đã đề nghị điều chỉnh mức hưởng trợ cấp thất nghiệp hằng tháng lên 75% mức bình quân tiền lương tháng đóng bảo hiểm thất nghiệp gần nhất trước khi thất nghiệp.
Theo Tổng Liên đoàn Lao động Việt Nam, thực tế đa số các doanh nghiệp đóng bảo hiểm thất nghiệp cho người lao động theo mức lương tối thiểu vùng do Chính phủ quy định, trong khi mức lương tối thiểu vùng hiện nay còn thấp.
Sau điều chỉnh từ ngày 1/7/2024 theo Nghị định số 74/2024/NĐ-CP của Chính phủ, hiện lương tối thiểu vùng 1 tăng lên 4,96 triệu đồng/tháng, vùng 2 là 4,41 triệu đồng/tháng, vùng 3 là 3,86 triệu đồng/tháng, vùng 4 là 3,45 triệu đồng/tháng.
Căn cứ theo quy định trên, thì từ ngày 1/7/2024, mức hưởng trợ cấp thất nghiệp tối đa như sau: Người lao động thuộc đối tượng thực hiện chế độ tiền lương do Nhà nước quy định là 11,7 triệu đồng/tháng (với mức lương cơ sở hiện là 2,34 triệu đồng).
Người lao động đóng bảo hiểm thất nghiệp theo chế độ tiền lương do người sử dụng lao động quyết định là 24,8 triệu đồng/tháng (vùng 1), 22,05 triệu đồng/tháng (vùng 2), 19,3 triệu đồng/tháng (vùng 3), và 17,25 triệu đồng/tháng (vùng 4).
Vì vậy, tổ chức Công đoàn cho rằng mức trợ cấp thất nghiệp cần tăng lên ít nhất 75% là phù hợp, nhằm tạo điều kiện hỗ trợ người lao động có cuộc sống tối thiểu khi mất việc làm, thất nghiệp.
Về vấn đề này, Liên đoàn Thương mại và Công nghiệp Việt Nam cũng cho rằng theo quy định tại dự thảo Luật, thì mức hưởng trợ cấp thất nghiệp hằng tháng bằng 60% mức bình quân tiền lương tháng đóng bảo hiểm thất nghiệp của 6 tháng đã đóng bảo hiểm thất nghiệp gần nhất trước khi thất nghiệp, nhưng tối đa không quá 5 lần lương tối thiểu vùng.
Trong khi mức trần đóng bảo hiểm xã hội hàng tháng quy không quá 20 lần mức lương tối thiểu vùng. Như vậy những người lương cao sẽ đóng cao hưởng ít, chưa đảm bảo nguyên tắc đóng hưởng của chính sách.
ĐẢM BẢO CÂN ĐỐI QUỸ BẢO HIỂM THẤT NGHIỆP
Phản hồi ý kiến của các đơn vị, Bộ Lao động – Thương binh và Xã hội cho rằng mức hưởng trợ cấp thất nghiệp theo quy định hiện hành 60% mức bình quân tiền lương là mức thu nhập tối thiểu để giảm bớt khó khăn cho người lao động khi bị mất việc làm, phù hợp với điều kiện Việt Nam và thông lệ quốc tế hiện nay. Do đó, cơ quan soạn thảo đề nghị vẫn giữ nguyên mức hưởng này.
Việc quy định mức trần hưởng trợ cấp thất nghiệp phù hợp với nguyên tắc bù đắp môt phần thu nhập khi người lao động thất nghiệp, đồng thời, đảm bảo khả năng cân đối thu chi của Quỹ Bảo hiểm thất nghiệp.
Còn việc quy định thời gian hưởng tối đa vì đây là chế độ ngắn hạn, đồng thời, thúc đẩy người lao động nhanh chóng quay trở lại thị trường lao động thông qua các hỗ trợ khác như: Tư vấn, giới thiệu việc làm, học nghề…
Theo Bộ Lao động – Thương binh và Xã hội, hiện nay, mức đóng bảo hiểm thất nghiệp bình quân tháng là 6 triệu đồng, một người đóng tối thiểu là 12 tháng với số tiền là 1% x 6 triệu đồng x 12 tháng = 720.000 đồng (tương ứng 12%) có thể hưởng các chế độ lên đến khoảng gần 500% (chưa tính đến chế độ hưởng tư vấn, giới thiệu việc làm).
Thực tế hiện nay, cứ 12 - 14 người đóng bảo hiểm thất nghiệp thì có 1 người hưởng. Nguyên tắc đóng – hưởng trong bảo hiểm thất nghiệp là nếu xảy ra rủi ro và đáp ứng đủ điều kiện, người tham gia bảo hiểm sẽ được hưởng khoản hỗ trợ đền bù về thiệt hại theo từng chế độ.
Theo ông Vũ Trọng Bình, Cục trưởng Cục Việc làm (Bộ Lao động – Thương binh và Xã hội), mục tiêu của chính sách bảo hiểm thất nghiệp là người lao động quay trở lại thị trường lao động một cách nhanh nhất và cung cầu được kết nối.
Vì vậy, Quỹ Bảo hiểm thất nghiệp có nhiều chế độ, trong đó trợ cấp thất nghiệp để người lao động trong quá trình mất việc làm vẫn có khoản tiền đảm bảo đời sống. Hay người lao động tham gia bảo hiểm thất nghiệp được hưởng chính sách đào tạo nghề.
“Nếu kéo dài thời gian hưởng trợ cấp thất nghiệp thì người lao động phải đóng thêm tiền. Bởi hiện nay đang đóng bảo hiểm thất nghiệp ở mức tối thiểu nhưng lại hưởng tối đa, cần phải cân đối khả năng rủi ro của Quỹ Bảo hiểm thất nghiệp.
Nếu không khống chế thời gian hưởng trợ cấp thất nghiệp thì xảy ra hiện tượng là người lao động có thể hưởng chế độ và không tích cực đi tìm việc, tham gia thị trường lao động. Đây là điểm yếu và sẽ làm cho Quỹ Bảo hiểm thất nghiệp hoạt động không đúng mục tiêu”, ông Vũ Trọng Bình lý giải.
Mặt khác, theo ông Bình, trường hợp người lao động hưởng số tháng trợ cấp thất nghiệp nhiều quá sẽ ảnh hưởng đến Quỹ Bảo hiểm thất nghiệp.
Nếu thực hiện kéo dài thời gian hưởng trợ cấp thất nghiệp, mở rộng chế độ đào tạo và chế độ hưởng thì phải tăng mức đóng bảo hiểm thất nghiệp, sẽ khiến cho người lao động, cũng như doanh nghiệp khó khăn.