Bộ Tài chính vừa có ý kiến trả lời về góp ý dự thảo Nghị định sửa đổi bổ sung một số điều của Nghị định 57/2020 về Biểu thuế xuất nhập khẩu ưu đãi, danh mục hàng hóa và mức thuế tuyệt đối, thuế hỗn hợp, thuế nhập khẩu ngoài hạn ngạch thuế quan của Phòng Thương mại và Công nghiệp Việt Nam (VCCI), trong đó có vấn đề điều chỉnh thuế suất thuế xuất khẩu mặt hàng phôi thép.
RÀ SOÁT LẠI THUẾ SUẤT ĐỐI VỚI PHÔI THÉP
Về vấn đề này, Bộ Tài chính cho biết theo quy định của Luật Thuế xuất khẩu, thuế nhập khẩu số 107/2016/QH13 ngày 6/4/2016 và Nghị định số 57/2020/NĐ-CP, thuế xuất khẩu được áp dụng chủ yếu đối với những mặt hàng là tài nguyên, khoáng sản không tái tạo cần giữ lại cho sản xuất trong nước.
Mức thuế xuất khẩu được xây dựng dựa theo nguyên tắc áp dụng mức cao đối với nguyên liệu, tài nguyên ở dạng thô và giảm dần đến các sản phẩm có mức độ chế biến cao hơn nhằm hạn chế xuất khẩu tài nguyên thiên nhiên chưa qua chế biến.
Theo nguyên tắc này, mức thuế xuất khẩu đối với nhóm nguyên liệu thô để sản xuất thép (quặng, thép phế liệu) hiện nay đã được quy định sở bằng mức trần khung thuế xuất khẩu (40% đối với quặng và 15-17% đối với phế liệu).
Riêng mặt hàng phôi thép (thép thô), đây là bán thành phẩm được sản xuất từ quặng và thép phế liệu nên mức thuế suất thuế xuất khẩu đang được quy định là 0%.
Số liệu từ Bộ Công Thương cho thấy, năm 2021, phôi thép các loại trong nước sản xuất dự kiến đạt khoảng 21,2 triệu tấn, đủ đáp ứng nhu cầu trong nước và dành cho xuất khẩu.
Theo số liệu của VSA, năm 2020, xuất khẩu phôi thép đạt khoảng 4 triệu tấn và trong 6 tháng đầu năm 2021 là 1,7 triệu tấn (giảm 9% so với cùng kỳ). Năm 2020, hai doanh nghiệp sản xuất phôi thép xuất khẩu lớn nhất là Tập đoàn Hòa Phát xuất khẩu 1,65 triệu tấn và Công ty Formosa xuất khẩu 1,48 triệu tấn, chiếm hầu hết sản lượng phôi xuất khẩu của cả nước.
Bộ Tài chính cho rằng, để đạt được sản lượng và mức đầu tư ngành phôi thép như hiện nay, Chính phủ đã có nhiều giải pháp khuyến khích doanh nghiệp đầu tư, mở rộng sản xuất như áp dụng chính sách thuế (thuế xuất khẩu 0%), áp dụng thuế nhập khẩu và thuế phòng vệ thương mại để hạn chế nhập khẩu, khuyến khích xuất khẩu.
Theo đó, ngành thép từng bước tự chủ được công nghệ và năng lực sản xuất phôi thép, đáp ứng đủ nhu cầu sản xuất thép xây dựng trong nước và xuất khẩu được ra nước ngoài.
Việc tăng giá phôi thép thời gian qua theo đánh giá của Bộ Công Thương và Hiệp hội Thép Việt Nam (VSA) chủ yếu do giá nguyên liệu đầu vào trên thị trường thế giới tăng cao và sản xuất phôi thép trong nước phần lớn phụ thuộc vào nguồn nguyên liệu nhập khẩu, đặc biệt là quặng sắt và thép phế liệu. Trên 90% quặng để sản xuất phôi trong nước hiện nay là từ nhập khẩu.
Về sản lượng sản xuất, theo báo cáo của Bộ Công Thương, trong nước sản xuất phôi thép đang dư thừa công suất. Theo đó, nhiều ý kiến cho rằng việc đặt vấn đề tăng thuế xuất khẩu phôi thép sẽ ảnh hưởng tiêu cực đến ngành sản xuất phôi thép do dư thừa công năng, làm gia tăng hàng tồn kho.
Nguồn cung phôi thép sản xuất trong nước đang dư nên việc tăng thuế xuất khẩu phôi thép cũng chưa hẳn sẽ góp phần làm giảm giá thành thép thành phẩm. Để thúc đẩy ngành thép phát triển bền vững, hạn chế việc khai thác nguồn điện giá rẻ để sản xuất phôi thép cần phải có các giải pháp tổng thể khác.
Do đó, trên cơ sở ý kiến của Bộ Công Thương, VCCI, VSA và các doanh nghiệp sản xuất thép, Bộ Tài chính đang nghiên cứu, rà soát để có mức thuế suất phù hợp đối với mặt hàng phôi thép.
CÂN NHẮC THẬN TRỌNG
Trước đó, giữa tháng 7/2021, Bộ Tài chính công bố dự thảo Nghị định sửa đổi bổ sung một số điều của Nghị định 57/2020 về Biểu thuế xuất nhập khẩu ưu đãi, danh mục hàng hóa và mức thuế tuyệt đối, thuế hỗn hợp, thuế nhập khẩu ngoài hạn ngạch thuế quan, trong đó có đề xuất điều chỉnh thuế suất thuế xuất khẩu mặt hàng phôi thép từ 0% lên 5%, với lý do để ổn định nguồn cung cho thị trường.
Tuy nhiên, trong ý kiến góp ý mới đây, VCCI cho rằng lý do này chưa thuyết phục, bởi thị trường nội địa dường như không thiếu phôi thép. Hiện tại, năng lực sản xuất phôi thép của Việt Nam đang tăng trưởng tốt, công suất đạt 24 triệu tấn/năm. Năm 2020, sản lượng phôi thép đạt 17,21 triệu tấn, còn 4 tháng đầu năm 2021, sản lượng đạt 7,13 triệu tấn, tăng 35% so với cùng kỳ năm 2020.
Đồng thời, nhập khẩu phôi thép có xu hướng giảm mạnh. Theo đó, nhập khẩu năm 2020 giảm 97,5% so với năm 2019, xuống 1,2 triệu USD; 5 tháng đầu năm 2021, giá trị nhập khẩu giảm mạnh chỉ còn 252.000 USD.
Từ các số liệu trên, VCCI cho rằng nguồn cung phôi thép trong nước không thiếu. Vì thế, việc tăng thuế suất thuế xuất khẩu không chắc có thể giảm giá phôi thép trong nước, qua đó khó tác động giảm giá thép thành phẩm như mục tiêu ban đầu. Trong khi đó, việc tăng thuế suất có thể trực tiếp ngay lập tức tác động đến giá và lợi nhuận của các đơn hàng xuất khẩu của doanh nghiệp sản xuất phôi thép.
VCCI đề nghị cơ quan soạn thảo đánh giá lại nguyên nhân dẫn đến việc giá thép xây dựng tăng cao, đồng thời rà soát, đánh giá toàn diện tác động của việc điều chỉnh thuế với phôi thép, từ đó xây dựng phương án điều chỉnh phù hợp.
Việc đẩy mạnh mở rộng thị trường xuất khẩu là rất cần thiết, giúp đẩy mạnh sản xuất, nâng cao hiệu quả đầu tư, tạo công ăn việc làm cho hàng trăm ngàn lao động thì cơ hội xuất khẩu các sản phẩm thép thành phẩm này là tốt, giúp có nguồn thu ngoại tệ và đa dạng hóa thị trường của doanh nghiệp.
Đồng quan điểm, trong văn bản trả lời Bộ Tài chính về việc góp ý dự thảo, VSA nhấn mạnh tăng thuế xuất khẩu phôi thép của Bộ Tài chính chưa phù hợp, vì chính sách này không chỉ gây thêm khó khăn cho doanh nghiệp, mà còn chưa phù hợp với thực trạng ngành sản xuất thép trong nước hiện nay.
Hơn nữa, với các Hiệp định thương mại tự do Việt Nam đã, đang và sẽ ký với các quốc gia và khu vực đã là một thách thức với ngành thép Việt Nam, đặc biệt với các khối như Hiệp định Đối tác Toàn diện và Tiến bộ xuyên Thái Bình Dương, hay Hiệp định Đối tác Kinh tế Toàn diện Khu vực là những khu vực có các cường quốc sản xuất thép như Trung Quốc, Nhật Bản…Vì thế, việc điều chỉnh thuế như dự thảo Nghị định sửa đổi sẽ làm gia tăng khó khăn cho các nhà sản xuất thép trong nước.
Theo VSA, chính sách thuế xuất nhập khẩu nói chung và thuế xuất khẩu thép là những chính sách dài hạn góp phần thúc đẩy ngành sản xuất trong nước trong đó có ngành thép, cũng như các ngành kinh tế trong nước phát triển bền vững chứ không phải là một giải pháp ngắn hạn trước mắt để xử lý các hiện tượng tăng giảm của thị trường nhất thời. Quan điểm của VSA là Chính phủ cần có chính sách nhất quán để bảo vệ ngành sản xuất trong nước.