March 28, 2023 | 20:31 GMT+7

Chuyên gia: Sau khủng hoảng ngân hàng sẽ là "đại dịch" phá sản doanh nghiệp?

Hoài Thu -

Theo một nhà phân tích về kinh tế và tài chính, sau làn sóng rút tiền ồ ạt gây ra khủng hoảng ngân hàng có thể là một “đại dịch” phá sản của các doanh nghiệp - điều mà ông mô tả là “chắc chắn như đêm nối tiếp ngày”...

Lãi suất tăng sẽ gây hiệu ứng dây chuyền đối với các doanh nghiệp nhỏ ở châu Á - Ảnh: SCMP
Lãi suất tăng sẽ gây hiệu ứng dây chuyền đối với các doanh nghiệp nhỏ ở châu Á - Ảnh: SCMP

Theo nhà báo kỳ cựu về kinh tế và tài chính Anthony Rowley, người từng làm việc tại Tạp chí Kinh tế Viễn Đông (Hồng Kông) và The Times, quan điểm cho rằng những hậu quả của trạng thái dư thừa tài chính với nền lãi suất thấp có thể được xử lý bằng việc siết chặt chính sách tiền tệ đang ngày càng trở nên bất cập.

Bằng chứng dễ thấy nhất là làn sóng rút tiền ồ ạt tại các ngân hàng ở Mỹ và châu Âu gần đây. Tuy nhiên, ông Rowley cảnh báo rằng điều tồi tệ nhất có thể vẫn chưa đến. Bởi theo sau làn sóng rút tiền có thể là một “đại dịch” phá sản của các doanh nghiệp - điều mà ông mô tả là “chắc chắn như đêm nối tiếp ngày”.

Thị trường tài chính toàn cầu những tuần qua hứng chịu cú sốc lớn khi hai ngân hàng Mỹ là SVB và Signature Bank sụp đổ, theo sau là cuộc khủng hoảng của ngân hàng Thuỵ Sỹ Credit Suisse. Theo ông Rowley, thị trường tài chính có thể sẽ bị bất ngờ và mất cảnh giác khi tác động của những đợt tăng lãi suất mạnh vừa qua tới các doanh nghiệp đang vay nợ quá mức bắt đầu “nở rộ”.

“Điều này là một rủi ro lớn ở châu Á, nơi mà mức vay của các doanh nghiệp - và trong một số trường hợp là các hộ gia đình - đã tăng vọt những năm gần đây, tương đương hoặc thậm chí vượt qua cả nợ của chính phủ”, nhà phân tích kỳ cựu về kinh tế và tài chính nhận định.

Năm 2022, Văn phòng Nghiên cứu kinh tế vĩ mô ASEAN + 3 (AMRO) đã cảnh báo về tình trạng nợ tăng mạnh tại các doanh nghiệp phi tài chính tại các nước thành viên thuộc Hiệp hội các quốc gia Đông Nam Á (ASEAN) cũng như Trung Quốc (bao gồm Hồng Kông), Nhật Bản và Hàn Quốc bởi cuộc khủng hoảng tài chính toàn cầu năm 2008 “đã làm gia tăng rủi ro đối với sự ổn định tài chính, điều càng trở nên trầm trọng hơn do đại dịch Covid-19”. Đó là trước khi lạm phát xuất hiện.

Tính tới cuối năm 2021, nợ của các doanh nghiệp phi tài chính toàn cầu đứng ở mức 88 nghìn tỷ USD, lần đầu tiên vượt tổng GDP toàn cầu. Con số này giảm nhẹ trong năm 2022 nhưng từ đó đến nay trở nên tồi tệ hơn. Nguyên nhân là lãi suất đã tăng vọt trong năm qua. Trước đó, lãi suất tại nhiều quốc gia được điều chỉnh về gần 0% (hoặc thậm chí lãi suất âm ở một số nơi) để ngăn chặn Đại suy thoái lặp lại.

Thị trường tài chính toàn cầu những tuần qua hứng chịu cú sốc lớn - Ảnh: Reuters
Thị trường tài chính toàn cầu những tuần qua hứng chịu cú sốc lớn - Ảnh: Reuters

Trong một báo cáo năm 2021, Quỹ Tiền tệ Quốc tế (IMF) nhấn mạnh: “Các điều kiện tài chính nới lỏng sau khủng hoảng tài chính toàn cầu năm 2008-2009 là động lực chính thúc đẩy tình trạng sử dụng đòn bẩy tăng lên tại cả các nền kinh tế phát triển và mới nổi”.

Kể từ tháng 3/2022, Cục Dự trữ Liên bang Mỹ đã liên tục lãi suất quỹ liên bang lên mức 4,75-5% hiện tại, kéo theo động thái tương tự của nhiều ngân hàng trung ương tại cả các nền kinh tế phát triển và mới nổi.

“Những điều tồi tệ xảy ra khi lãi suất tăng”, nhà phân tích tài chính kỳ cựu Jesper Koll phát biểu tại một sự kiện gần đây ở Tokyo (Nhật Bản).

Thực tế đúng như vậy. Các hộ gia đình, chủ doanh nghiệp và các chính phủ bắt đầu chịu chi phí đi vay tăng lên. Những người mua nhà bằng tiền vay thế chấp có thể mất nhà, còn các doanh nghiệp - đặc biệt là cỡ vừa và nhỏ - đối mặt nguy cơ phá sản.

Câu hỏi đặt ra là tại sao các giám đốc điều hành doanh nghiệp và các nhà phân tích thị trường dường như không lường trước được “những hậu quả hoàn toàn có thể dự báo trước được” của những diễn biến như vậy?

Theo nhà báo Rowley, một ví dụ điển hình cho điều này là ông Nigel Green, giám đốc quản lý tài sản tại deVere. Vị giám đốc này nhận xét rằng các nhà đầu tư đang ngày càng tin tưởng rằng chính sách tiền tệ sắp được nới lỏng và họ “muốn xây dựng danh mục đầu tư của mình dựa trên dòng tiền mới đó”.

Theo ông, bức tranh lạm phát đã thay đổi khi các chính phủ tung ra những chương trình hỗ trợ tiền mặt quy mô lớn trong đại dịch Covid-19. Giá cả hàng hóa và dịch vụ tăng vọt sau đó đã khiến các ngân hàng trung ương lo sợ và đồng loạt tăng lãi suất mạnh và đột ngột. Kéo theo đó sẽ là một cuộc suy thoái kinh tế, sự sụt giảm của các tài sản sinh lời cố định, một cuộc khủng hoảng tài chính ngân hàng mới và những đồn đoán rằng các ngân hàng trung ương cần ngừng tăng lãi suất kể cả trước khi lạm phát trở về mức mục tiêu.

"Trong bối cảnh các cường quốc đang bận rộn đối đầu nhau trong chiến tranh thương mại và công nghệ mà không lưu tâm đến một cuộc 'siêu suy thoái' sắp xảy ra, hệ thống tài chính có thể sẽ phải tự thanh lọc trước khi các nhà hoạch định chính sách thực sự nhìn nhận mối đe dọa mà hệ thống đang đối mặt", ông Rowley nhận định.

Attention
The original article is written and published on VnEconomy in Vietnamese only. To read the full article, please use the Google Translate tool below to translate the content into your preferred language.
VnEconomy is not responsible for the translation.

Google translate