Trong khi sản lượng điện toàn hệ thống tăng, kết quả kinh doanh của các doanh nghiệp ngành điện suy giảm về doanh thu với mức giảm 7,9% và đặc biệt về lợi nhuận trước thuế giảm 66,8% và có sự phân hóa lớn trong nhóm các doanh nghiệp Thủy điện- Nhiệt điện Than- Nhiệt điện khí.
Chủ yếu do: Giá thị trường điện điều chỉnh giảm 11,2% so với 2023, tỷ lệ alpha (tỷ lệ điện hợp đồng Qc) cho thủy điện tăng lên mức 98%; Thủy điện nước về hồ thấp do El nino, trữ nước để dành cho mùa nắng nóng, sản lượng thấp, tỷ lệ Alpha (%Qc) cao (98%).
Nhiệt điện than có giá cạnh tranh tốt, được huy động sản lượng cao nên kết quả kinh doanh tăng tốt (QTP, HND, PPC). Nhiệt điện khí cạnh tranh thấp do giá khí cao, thiếu khí cục bộ, được huy động thấp nên kết quả kinh doanh suy giảm (PGV, POW, NT2, BTP).
Trên thị trường, cổ phiếu điện tiếp tục bật tăng mạnh trong phiên ngày 3/6 với POW bật hết biên độ, NT2 tăng 2,4%; PC1 tăng 3,50%...
Theo đánh giá của VPBankS, theo PE, các doanh nghiệp ngành điện (phát điện và phân phối điện) đang được định giá cao hơn trung bình thị trường, PE ngành điện ở mức 22.3 lần, trong khi VN-Index là 14,2 lần. Mức PE ngành điện diễn biến cao hơn từ đầu năm 2024, và tăng nhanh khi lũy kết kết quả kinh doanh Q1/2024.
Theo PB, mức định giá doanh nghiệp ngành điện đang tương đương thị trường, ở mức 1,72 lần so với 1,76 lần toàn thị trường
Theo EV/EBITDA, các doanh nghiệp ngành điện được định giá thận trọng hơn với mức 8,8 lần so với 16,3 lần của thị trường.
VPBankS đánh giá triển vọng lạc quan những tháng tiếp theo trong năm 2024 khi dự báo Nhu cầu điện tiếp tục tăng lên. Bộ Công thương/EVN vừa thực hiện điều chỉnh phương án nhu cầu điện tăng thêm 1,25% so với kế hoạch đầu năm, đưa tổng nhu cầu điện lên 310,6 tỷ kwh, tăng 10,68% so với 2023.
Giá nhiên liệu sơ cấp dự báo cơ bản ổn định sau khi đã giảm trong năm 2022-2023. Giá dầu khí trên thị trường quốc tế dự báo biến động trong khoảng 80-90 usd/thùng trong năm 2024. Căng thẳng địa chính trị có thể đẩy giá dầu tăng cao lên trên 95 usd/thùng, nhưng cơ bản là ổn định như trong năm 2023. Giá khí tại Mỹ được dự báo tăng khoảng 5% trong năm 2024 lên mức 2,66 usd/mmbtu.
Giá than trong năm 2023 cũng giảm mạnh khoảng 52%-54% đồi với từng loại
than (xuất xứ và nhiệt trị). Năm 2023 cũng được dự báo tiêu thụ than đạt mức đỉnh với 8,54 tỷ tấn, tăng 1,4%. Từ 2024 tiêu thụ than sẽ giảm dần, đặc biệt ở các nước phát triển, do năng lượng tái tạo tiếp tục được đầu tư lớn. Điều này có thể gây áp lực lên giá than.
Đến cuối T5/2024 có 29 dự án với tổng công suất 1.578MW/4.735MW công suất điện năng lượng tái tạo hoàn thành COD. Tăng thêm 8 dự án với công suất 376 MW. Có thể thấy tốc độ thực hiện COD còn khá chậm. Hiện vẫn còn 4 dự án (137 MW) chưa gửi hồ sơ đàm phán giá điện. Theo kế hoạch, Nhà máy điện khí LNG Nhơn Trạch 3 (NT3) sẽ đi vào vận hành thử từ tháng 5.2024 và vận hành thương mại từ tháng 11/2024, với công suất 812 MW.
Theo kế hoạch, Nhà máy điện khí LNG Nhơn Trạch 3 (NT3) sẽ đi vào vận hành thử từ tháng 5/2024 và vận hành thương mại từ tháng 11/2024, với công suất 812 MW.
Hình thái El Nino sẽ kết thúc từ tháng 5-6/2024 và La Nina khả năng sẽ quay trở lại từ cuối tháng 5 đầu tháng 6/2024. Đến cuối tháng 5, lượng nước tích trữ các hồ đat khoảng 11,3 tỷ kwh, dự phòng cho cao điểm nắng nóng sắp tới. Điều này hỗ trợ các nhà máy thủy điện có thể hoạt động tích cực hơn so với 2023. Dự báo sản lượng thủy điện năm 2024 có thể đạt 84,1 tỷ kwh, tăng 4% so với năm 2023.
Trong năm 2024 kinh tế kỳ vọng kinh tế tăng trưởng mạnh mẽ hơn (6%-6.5%). Dự báo nhu cầu điện sẽ tiếp tục tăng lên 10%-11%. EVN cập nhật kế hoạch (KH2) sản lượng điện sản xuất và nhập khẩu đạt 310,6 tỷ kwh, tăng 10,68% so với thực hiện 2023. Phương án dự phòng (KH3) là nhu cầu tăng cao hơn đạt 313,4 tỷ kwh (+11,4%).
Điện Than và khí tiếp tục đóng góp vai trò nền tảng, chi phí sản xuất điện than hợp lý hơn khi giá than ở mức thấp. Điện khí được bổ sung nhà máy NT3 vào cuối năm 2024. Năng lượng tái tạo - Điện gió được bổ sung thêm 3.500MW từ các dự án chuyển tiếp, nếu đẩy nhanh tiến độ COD, sản lượng có thể tăng thêm gần tỷ kwh.