Bộ Lao động – Thương binh và Xã hội đang lấy ý kiến dự thảo Nghị định quy định chi tiết một số điều của Luật Bảo hiểm xã hội về bảo hiểm xã hội tự nguyện. Trong đó, có nội dung hỗ trợ tiền đóng bảo hiểm xã hội cho người tham gia bảo hiểm xã hội tự nguyện.
Theo đó, dự thảo Nghị định đề xuất người tham gia bảo hiểm xã hội tự nguyện được Nhà nước hỗ trợ tiền đóng theo tỷ lệ phần trăm (%) trên mức đóng bảo hiểm xã hội hằng tháng, theo mức chuẩn hộ nghèo của khu vực nông thôn, theo 2 phương án.
Phương án 1: Bằng 50% đối với người tham gia bảo hiểm xã hội tự nguyện thuộc hộ nghèo; bằng 40% đối với người tham gia bảo hiểm xã hội tự nguyện thuộc hộ cận nghèo; bằng 30% đối với người tham gia bảo hiểm xã hội thuộc dân tộc thiểu số; và bằng 20% đối với các đối tượng khác.
Phương án 2: Bằng 30% đối với người tham gia bảo hiểm xã hội thuộc hộ nghèo, người thuộc dân tộc thiểu số; bằng 25% đối với người tham gia bảo hiểm xã hội thuộc hộ nghèo; bằng 20% đối với người tham gia bảo hiểm xã hội thuộc dân tộc thiểu số; bằng 10% đối với các đối tượng khác.
Người tham gia bảo hiểm xã hội tự nguyện thuộc nhiều đối tượng được hỗ trợ ở nhiều mức khác nhau, thì được hỗ trợ theo mức hỗ trợ cao nhất.
Khuyến khích các địa phương, cơ quan, tổ chức, và cá nhân hỗ trợ tiền đóng bảo hiểm xã hội cho người tham gia bảo hiểm xã hội tự nguyện.
Căn cứ vào điều kiện phát triển kinh tế - xã hội, và khả năng ngân sách Nhà nước trong từng thời kỳ, Chính phủ sẽ xem xét điều chỉnh mức hỗ trợ tiền đóng cho người tham gia bảo hiểm xã hội tự nguyện cho phù hợp.
Thời gian hỗ trợ tùy thuộc vào thời gian tham gia bảo hiểm xã hội tự nguyện thực tế của mỗi người, nhưng không quá 10 năm (120 tháng).
Dự thảo quy định, người tham gia bảo hiểm xã hội tự nguyện thuộc đối tượng được hỗ trợ, nộp số tiền đóng bảo hiểm xã hội phần thuộc trách nhiệm đóng của mình cho cơ quan Bảo hiểm xã hội, hoặc tổ chức dịch vụ thu bảo hiểm xã hội tự nguyện do cơ quan Bảo hiểm xã hội ủy quyền.
Định kỳ 3 tháng, 6 tháng hoặc 12 tháng, cơ quan Bảo hiểm xã hội tổng hợp số đối tượng được hỗ trợ, số tiền thu của đối tượng và số tiền, ngân sách Nhà nước hỗ trợ theo mẫu, do Bảo hiểm xã hội Việt Nam ban hành sau khi có ý kiến thống nhất của Bộ Tài chính, gửi cơ quan tài chính để chuyển kinh phí vào Quỹ Bảo hiểm xã hội.
Cơ quan tài chính căn cứ quy định về phân cấp quản lý ngân sách của địa phương, và bảng tổng hợp đối tượng tham gia bảo hiểm xã hội tự nguyện, kinh phí ngân sách Nhà nước hỗ trợ do cơ quan Bảo hiểm xã hội chuyển đến, có trách nhiệm chuyển kinh phí vào Quỹ Bảo hiểm xã hội mỗi quý một lần.
Chậm nhất đến ngày 31/12 hằng năm, phải thực hiện xong việc chuyển kinh phí hỗ trợ vào Quỹ Bảo hiểm xã hội của năm đó.
Kinh phí hỗ trợ tiền đóng bảo hiểm xã hội cho người tham gia bảo hiểm xã hội tự nguyện do ngân sách địa phương đảm bảo, theo phân cấp ngân sách Nhà nước hiện hành. Ngân sách Trung ương hỗ trợ đối với các địa phương ngân sách khó khăn.
Các quy định của Nghị định này được áp dụng đối với người đã tham gia bảo hiểm xã hội tự nguyện từ trước ngày 1/7/2025.
Người đang hưởng lương hưu hằng tháng trước ngày 1/7/2025, thì vẫn thực hiện theo các quy định trước đây, và được điều chỉnh mức hưởng.
Người tham gia bảo hiểm xã hội tự nguyện mà trước đó có thời gian đóng bảo hiểm xã hội bắt buộc, bao gồm phụ cấp khu vực, thì ngoài lương hưu, bảo hiểm xã hội một lần, và trợ cấp tuất, thì được giải quyết hưởng trợ cấp khu vực một lần theo quy định của pháp luật bảo hiểm xã hội bắt buộc.
Người tham gia bảo hiểm xã hội tự nguyện có đủ điều kiện và hưởng các chế độ bảo hiểm xã hội tự nguyện trước ngày 1/7/2025, thì vẫn thực hiện theo quy định của Luật Bảo hiểm xã hội năm 2014.
Trường hợp người tham gia bảo hiểm xã hội tự nguyện đã đóng theo các phương thức đóng 3 tháng, hoặc 6 tháng, hoặc 12 tháng một lần, hoặc đóng một lần cho nhiều năm về sau, mà trong đó có thời gian kể từ ngày 1/7/2025 trở đi, thì việc hỗ trợ tiền đóng được thực hiện kể từ thời điểm người lao động tham gia đóng bảo hiểm xã hội tự nguyện theo phương thức đóng mới, sau khi hoàn thành thời gian đóng bảo hiểm xã hội theo phương thức đã đăng ký trước đó.
Nghị định dự kiến có hiệu lực thi hành kể từ ngày 1/7/2025.