February 19, 2024 | 14:46 GMT+7

Đề xuất tăng lương hưu thêm 8% từ ngày 1/7/2024

Thu Hằng -

Mức điều chỉnh lương hưu, trợ cấp bảo hiểm xã hội và trợ cấp hằng tháng cần tăng thêm 8%, áp dụng từ ngày 1/7/2024, sẽ giúp giảm bớt sự chênh lệch giữa người hưởng lương hưu trước cải cách tiền lương, theo đề xuất của Bảo hiểm xã hội Việt Nam...

Ảnh minh họa - Thu Hiền.
Ảnh minh họa - Thu Hiền.

Góp ý gửi đến Bộ Lao động – Thương binh và Xã hội về phương án điều chỉnh lương hưu, trợ cấp bảo hiểm xã hội và trợ cấp hằng tháng của năm 2024, Bảo hiểm xã hội Việt Nam đề xuất tăng thêm 8% từ ngày 1/7/2024.

Bảo hiểm xã hội Việt Nam cũng đề xuất sửa đổi quy định về cách tính mức bình quân tiền lương đóng bảo hiểm xã hội để tính lương hưu, trợ cấp bảo hiểm xã hội một lần.

Theo đó, từ ngày 1/7/2024, mức bình quân tiền lương đóng bảo hiểm xã hội để tính lương hưu, trợ cấp bảo hiểm xã hội theo quy định tại khoản 1 Điều 62 Luật Bảo hiểm xã hội năm 2014, được áp dụng đối với người lao động, có thời gian đóng bảo hiểm xã hội theo chế độ tiền lương do Nhà nước quy định trước ngày 1/7/2024.

Thời gian đóng bảo hiểm xã hội từ ngày 1/7/2024 trở đi được tính bình quân toàn bộ thời gian đóng bảo hiểm xã hội.

Với cách tính mức bình quân tiền lương đóng bảo hiểm xã hội để tính lương hưu, trợ cấp một lần theo đề xuất, thì bình quân 5 năm, mức lương hưu của người lao động tăng khoảng 1,5% (chưa tính đến yếu tố trượt giá).

Đồng thời, lương hưu của người nghỉ sau ngày 1/7/2024 chỉ tăng 0,13% so với người nghỉ hưu tháng 6/2024.

Thực tế, mức điều chỉnh lương hưu tại năm 2004, 2005 chỉ khoảng 10% (thời điểm thay đổi thang bảng lương toàn diện của người lao động trong khu vực Nhà nước).

Xét yếu tố trượt giá vào điều chỉnh lương hưu và tăng trưởng kinh tế năm 2023 (theo quy định tại Điều 57 Luật Bảo hiểm xã hội năm 2014) thì Bảo hiểm xã hội Việt Nam cho rằng, mức đề xuất mức điều chỉnh lương hưu từ ngày 1/7/2024 khoảng 8% là phù hợp (căn cứ mức tăng của chỉ số giá tiêu dùng năm 2023 là 3,25% và tăng trưởng kinh tế năm 2023 là 5,05%).

Theo Bảo hiểm xã hội Việt Nam, điều này sẽ giúp giảm bớt sự chênh lệch giữa người hưởng lương hưu trước cải cách tiền lương, và người hưởng lương hưu từ ngày 1/7/2024 trở đi.

Bởi vì đây là mức điều chỉnh lương hưu chung cho mọi người hưởng lương hưu, bao gồm cả người lao động trước khi nghỉ hưu đóng bảo hiểm xã hội theo mức tiền lương do Nhà nước quy định, và người đóng bảo hiểm xã hội theo mức tiền lương do người sử dụng lao động quyết định.

Với mức điều chỉnh 8%, dự kiến 6 tháng cuối năm 2024, kinh phí thực hiện điều chỉnh lương hưu, trợ cấp bảo hiểm xã hội từ ngân sách Nhà nước tăng khoảng 1.900 tỷ đồng.

Trường hợp điều chỉnh bổ sung đối với người nghỉ hưu trước năm 1995 có mức hưởng sau khi điều chỉnh theo mức 8% dưới 3.500.000 đồng/tháng, thì kinh phí tăng thêm khoảng 50 tỷ đồng. Quỹ Bảo hiểm xã hội tăng khoảng 6.900 tỷ đồng (chưa bao gồm mức trích đóng bảo hiểm y tế.

Thống kê của Bảo hiểm xã hội Việt Nam cho thấy, tính đến tháng 12/2023 đã có khoảng 2,7 triệu người cao tuổi hưởng lương hưu và trợ cấp bảo hiểm xã hội hằng tháng, chiếm 20,7% tổng số người cao tuổi.

Diện bao phủ bảo hiểm xã hội không ngừng mở rộng qua từng năm, đến hết năm 2023 là 18,2 triệu người, trong đó số người tham gia bảo hiểm xã hội tự nguyện khoảng 1,7 triệu người.

Tỷ lệ bao phủ bảo hiểm xã hội so với lực lượng lao động trong độ tuổi trong giai đoạn 2013-2022 cũng gia tăng nhanh, từ 23,4% năm 2013, lên gần 38,1% năm 2022 so với lực lượng lao động trong độ tuổi.

Cùng với việc gia tăng số người tham gia bảo hiểm xã hội thì số người hưởng lương hưu và trợ cấp bảo hiểm xã hội hằng tháng cũng gia tăng.

Nếu năm 2016 có gần 2,9 triệu người hưởng thì đến năm 2022 có khoảng 3,3 triệu người hưởng, tương ứng tỷ lệ tăng 13,62%, bình quân giai đoạn 2016-2022 tăng 2,16% mỗi năm.

Trong đó, số người hưởng lương hưu và trợ cấp bảo hiểm xã hội hằng tháng từ nguồn Quỹ Bảo hiểm xã hội tăng nhanh hơn, bình quân giai đoạn tăng 5,32% mỗi năm.

Ngược lại với xu hướng của Quỹ Bảo hiểm xã hội, số người hưởng lương hưu và trợ cấp bảo hiểm xã hội hằng tháng từ nguồn ngân sách nhà nước giảm dần, bình quân giai đoạn 2016-2022 giảm 2,88% mỗi năm.

 

Khoản 1, Điều 62, Luật Bảo hiểm xã hội 2014 quy định mức bình quân tiền lương tháng đóng bảo hiểm xã hội để tính lương hưu, trợ cấp một lần.

Theo đó, người lao động thuộc đối tượng thực hiện chế độ tiền lương do Nhà nước quy định, có toàn bộ thời gian đóng bảo hiểm xã hội theo chế độ tiền lương này, thì tính bình quân tiền lương tháng của số năm đóng bảo hiểm xã hội trước khi nghỉ hưu như sau:

Tham gia bảo hiểm xã hội trước ngày 1/1/1995, thì tính bình quân của tiền lương tháng đóng bảo hiểm xã hội của 5 năm cuối trước khi nghỉ hưu.

Tham gia bảo hiểm xã hội trong khoảng thời gian từ ngày 1/1/1995 đến ngày 31/12/2000, thì tính bình quân của tiền lương tháng đóng bảo hiểm xã hội của 6 năm cuối trước khi nghỉ hưu.

Tham gia bảo hiểm xã hội trong khoảng thời gian từ ngày 1/1/2001 đến ngày 31/12/2006, thì tính bình quân của tiền lương tháng đóng bảo hiểm xã hội của 8 năm cuối trước khi nghỉ hưu.

Tham gia bảo hiểm xã hội trong khoảng thời gian từ ngày 1/1/2007 đến ngày 31/12/2015, thì tính bình quân của tiền lương tháng đóng bảo hiểm xã hội của 10 năm cuối trước khi nghỉ hưu.

Tham gia bảo hiểm xã hội từ ngày 1/1/2016 đến ngày 31/12/2019, thì tính bình quân của tiền lương tháng đóng bảo hiểm xã hội của 15 năm cuối trước khi nghỉ hưu.

Tham gia bảo hiểm xã hội từ ngày 1/1/2020 đến ngày 31/12/2024, thì tính bình quân của tiền lương tháng đóng bảo hiểm xã hội của 20 năm cuối trước khi nghỉ hưu.

Tham gia bảo hiểm xã hội từ ngày 1/1/2025 trở đi, thì tính bình quân của tiền lương tháng đóng bảo hiểm xã hội của toàn bộ thời gian.

Attention
The original article is written and published on VnEconomy in Vietnamese only. To read the full article, please use the Google Translate tool below to translate the content into your preferred language.
VnEconomy is not responsible for the translation.

Google translate