Việc Cục Dự trữ Liên bang Mỹ (Fed) giảm lãi suất có mang tới một cuộc hạ cánh mềm cho nền kinh tế Mỹ hay không chỉ phụ thuộc một phần vào việc bên trong nền kinh tế đã suy yếu tới mức nào. Thành công của chính sách tiền tệ nới lỏng còn tùy thuộc vào việc lãi suất thấp hơn sẽ kích thích hoạt động đầu tư và tiêu dùng như thế nào.
Sau khi Fed đưa ra quyết định giảm lãi suất nửa điểm phần trăm vào ngày 18/9/2024, Chủ tịch Fed Jerome Powell phác họa hành động này như “một cuộc phô diễn sức mạnh”, khẳng định mong muốn của ngân hàng trung ương quyền lực nhất thế giới tránh phải có những đợt giảm lãi suất mạnh tay về sau nếu nền kinh tế sụt tốc. “Chúng tôi không nghĩ là mình chậm trễ. Mọi người có thể xem đây như một dấu hiệu cam kết của chúng tôi về việc không chậm trễ”, ông Powell nói tại một cuộc họp báo.
Một cuộc hạ cánh mềm - với tỷ lệ lạm phát giảm về mục tiêu 2% của Fed mà thị trường việc làm không xấu đi nhiều - là điều không dễ đạt được, vì xét cho cùng đòi hỏi tăng trưởng tín dụng được đẩy mạnh, theo tờ Wall Street Journal. Trong vòng một năm trở lại đây, lượng vốn vay mà các ngân hàng Mỹ cấp mới gần như không tăng và đây là một tình trạng hiếm khi xảy ra nếu nền kinh tế không suy thoái.
Cho dù lãi suất đã thấp hơn trước, nhiều doanh nghiệp và hộ gia đình có thể vẫn ngại đi vay vì lãi suất hiện nay thực ra vẫn cao hơn so với mức lãi suất mà họ đang trả cho các khoản vay lãi suất cố định mà họ đã vay được từ mấy năm trước. Nếu các doanh nghiệp và hộ gia đình đó không muốn vay khoản vay mới, việc giảm lãi suất sẽ khó phát huy tác dụng kích thích nền kinh tế.
Vấn đề nằm ở chi phí cận biên của việc vay nợ hiện đang giảm và chi phí bình quân của việc vay nợ hiện có thể vẫn đang tăng, nhất là đối với những người đi vay đã chốt được mức lãi suất thấp trước khi Fed bắt đầu tăng lãi suất. Do Fed tăng nhanh lãi suất sau hơn một thập kỷ giữ lãi suất ở mức thấp lịch sử, lãi suất đi vay bình quân trong nhiều khu vực của nền kinh tế hiện vẫn đang thấp hơn lãi suất cận biên của vốn vay mới, ngay cả khi Fed hạ lãi suất.
NHU CẦU SẼ BUNG XẢ HAY NHỎ GIỌT?
Nhu cầu ảm đạm trên thị trường bất động sản Mỹ trong một năm qua cho thấy người đi vay đang tìm mọi cách để tránh phải trả lãi suất cao hơn, cụ thể là bằng cách không đổi sang nhà mới. Lãi suất của các khoản vay thế chấp nhà lãi suất cố định kỳ hạn 30 năm đã giảm xuống duới 6,1%, mức thấp nhất trong hơn hai năm và giảm từ mức 7,2% ghi nhận trong tháng 5/2024, theo dữ liệu từ Công ty tài chính Freddie Mac. Tuy nhiên, lãi suất bình quân của các khoản vay thế chấp nhà ở thời điểm tháng 7/2024 là 3,9%. Mức lãi suất này đã gần như không thay đổi trong hai năm qua do nhiều người Mỹ đã vay khoản vay thế chấp nhà dài hạn với lãi suất cố định.
Ngoài ra, lãi suất giảm đến nay chưa có nhiều tác dụng trong việc cải thiện sự phải chăng của giá nhà. So với thu nhập của hộ gia đình ở Mỹ, giá nhà ở nước này đang ở mức cao lịch sử. “Việc nới lỏng chính sách tiền tệ chưa hề tạo ra một sự bung xả nhu cầu”, Phó chủ tịch Jody Kahn của Công ty nghiên cứu và tư vấn John Burns Research & Consulting, nhận định.
Sau động thái giảm lãi suất 0,5 điểm phần trăm về ngưỡng 4,75-5% của Fed vào ngày 18/9/2024, thị trường đã kỳ vọng Fed có thêm một đợt giảm 0,5 điểm phần trăm nữa vào tháng 11/2024 và một đợt giảm 0,25 điểm phần trăm vào tháng 12/2024. Tuy nhiên, trong một bài phát biểu ngày 30/9/2024, Chủ tịch Fed Jerome Powell đã dập tắt kỳ vọng về bước giảm 0,5 điểm phần trăm, ông cho biết Fed không vội vã trong việc nới lỏng.
Đối với những khoản nợ đáo hạn trong vòng một năm tới, những doanh nghiệp có khoản vay lãi suất cố định ở mức lãi suất thấp hơn sẽ phải đối mặt với sự gia tăng lãi suất đáng kể ngay cả khi Fed hạ lãi suất tổng cộng tròn một điểm phần trăm trong năm nay. Các công ty “có khoản vay dài hạn lãi suất cố định không cần phải thay đổi bất kỳ điều gì ở thời điểm này nên họ cũng sẽ không thay đổi việc ra quyết định trong ngắn hạn”, bà Rebecca Patterson, cựu Giám đốc chiến lược đầu tư tại công ty Bridgewater Associates, nhận xét.
Tuy nhiên, có một điều chắc chắn là nhà đầu tư lạc quan bởi Fed có nhiều dư địa để hạ lãi suất. Lãi suất thấp hơn sẽ giúp cải thiện tâm lý, bao gồm thông qua việc phát đi tín hiệu rằng Fed sẽ hành động nhanh chóng hơn để chống lại sự giảm tốc của nền kinh tế nếu có những bằng chứng cho thấy nền kinh tế sụt tốc nghiêm trọng.
Ngoài ra, một số lượng nhỏ hơn các công ty có quy mô nhỏ hơn và mức độ rủi ro cao hơn - đã vay các khoản vay lãi suất thả nổi - sẽ ngay lập tức hưởng lợi từ việc Fed hạ lãi suất. Lãi suất thấp hơn ở Mỹ có thể làm suy yếu đồng USD, cho phép các nền kinh tế mới nổi hạ lãi suất mà không lo đồng nội tệ mất giá so với đồng USD.
MỐI LO VỀ SỰ TRUYỀN DẪN CỦA CHÍNH SÁCH TIỀN TỆ
Tuy nhiên, cũng có một rủi ro là chu kỳ nới lỏng này có thể gặp những thách thức tương tự trong việc truyền dẫn các động thái chính sách vào nền kinh tế, giống như chu kỳ thắt chặt vừa rồi của Fed. Khi Fed tăng lãi suất với bước nhảy siêu lớn 0,75 điểm phần trăm mỗi lần cách đây 2 năm, giới chuyên gia kinh tế đã sửng sốt khi chứng kiến nền kinh tế trụ vững dưới áp lực của lãi suất cao.
Nhiều hộ gia đình và doanh nghiệp không bị ảnh hưởng bởi lãi suất cao vì họ đã chốt được mức lãi suất thấp ở những khoản vay lãi suất cố định vào các năm 2020 và 2021, khi lãi suất ở Mỹ giảm xuống mức siêu thấp. “Chu kỳ thắt chặt lãi suất có thể vấp phải một thực tế là nhiều doanh nghiệp và hộ gia đình đang có trong tay lượng dự trữ tiền mặt lớn. Điều đó đồng nghĩa họ không cần phải đi vay”, như thế việc truyền dẫn tác dụng của lãi suất giảm vào nền kinh tế sẽ gặp khó, theo bà Esther George, người đã giữ cương vị Chủ tịch Fed Chi nhánh Kansas từ năm 2011 đến năm 2023.
Còn theo ông Jon Faust, cố vấn cấp cao cho ông Powell từ năm 2018 cho tới trước khi rời vị trí này trong năm 2024, các ngân hàng trung ương cần phải thừa nhận rằng họ biết rất ít về việc chính sách tiền tệ thẩm thấu như thế nào vào nền kinh tế. “Chúng ta biết nhiều về hướng đi, nên khi cảm thấy chính sách chưa đủ mạnh, chúng ta sẽ đẩy mạnh. Nhưng cụ thể là đẩy mạnh khi nào và ở mức độ nào lại tùy thuộc vào nhiều thứ mà chúng ta không biết rõ”, ông Faust chia sẻ.
Một số chủ doanh nghiệp Mỹ nhìn nhận động thái giảm lãi suất mới nhất của Fed với tâm trạng hồ nghi. CEO Elias Sabo của Compass Diversified (công ty cổ phần tư nhân sở hữu nhiều công ty con cung cấp các hàng hóa và dịch vụ bình dân) cho biết ngay cả mức giảm lãi suất tròn một điểm phần trăm “cũng không có tác dụng nhiều, vì chúng tôi thực chất đang vay với lãi suất tương đối thấp rồi”.
Theo ông Sabo, công ty của ông chứng kiến nhu cầu tiêu dùng yếu đi trong một năm qua, trong đó giảm mạnh hơn trong quý 1 và quý 2 năm 2024, trước khi giảm ít hơn trong quý 3. Ông cho biết công ty đang giảm bớt việc tuyển dụng nhân sự và để trống nhiều vị trí vì nhu cầu giảm.
Ít có lĩnh vực nào trong nền kinh tế Mỹ phản ánh động lực lãi suất rõ hơn lĩnh vực bất động sản. Việc dịch chuyển nhanh chóng từ thời kỳ lãi suất siêu thấp trong đại dịch Covid-19 sang thời kỳ lãi suất cao nhất 2 thập kỷ đã gây ra những xáo trộn lớn trên thị trường bất động sản thương mại. “Lúc đầu, doanh số tăng mạnh khi lãi suất giảm, nhưng sau đó, thị trường sụt giảm mạnh mẽ”, luật sư về bất động sản thương mại Tedd Friedman ở Cincinnati cho biết.
Nhiều chủ sở hữu bất động sản thương mại đã vay nợ khi lãi suất còn thấp đang cố gắng chờ cho tới phút chót mới đảo nợ, với hy vọng rằng cho tới lúc đó, Fed đã cắt giảm lãi suất thêm nhiều. “Không ít ngân hàng khu vực đang có bảng cân đối kế toán khá lớn và nhiều tài sản có vấn đề trên đó, nên không muốn đảo nợ cho những khách hàng không phải là khách cũ”, ông Friedman cho hay.
Ông Friedman dự báo số vụ vỡ nợ sẽ tăng lên trừ phi Fed giảm mạnh lãi suất thêm nữa trong năm 2024 vì nhiều chủ bất động sản sẽ không thể đảo nợ các khoản vay đáo hạn mà không phải cầm cố thêm tài sản. “Những tài sản đó mang lại hiệu quả tương đối tốt cho tới khi chủ sở hữu phải đảo nợ”, ông Friedman cho biết.
Nội dung bài viết được đăng tải trên Tạp chí Kinh tế Việt Nam số 41-2024 phát hành ngày 07/10/2024. Kính mời Quý độc giả tìm đọc tại đây:
https://postenp.phaha.vn/chi-tiet-toa-soan/tap-chi-kinh-te-viet-nam