Tại hội thảo “Góp ý dự thảo Luật sửa đổi, bổ sung một số điều của Luật Chất lượng sản phẩm, hàng hóa” ngày 3/3/2025, ông Phạm Tấn Công, Chủ tịch Liên đoàn Thương mại và Công nghiệp Việt Nam (VCCI), cho rằng Luật Chất lượng sản phẩm, hàng hóa năm 2007 đã tạo nền tảng pháp lý vững chắc, góp phần nâng cao tiêu chuẩn chất lượng, minh bạch hóa hoạt động sản xuất, nhập khẩu và kinh doanh.
Tuy nhiên, trong bối cảnh hội nhập kinh tế sâu rộng và sự phát triển nhanh chóng của khoa học, công nghệ, khung pháp lý hiện hành đã bộc lộ một số hạn chế, đòi hỏi phải được sửa đổi, bổ sung để phù hợp hơn với thực tiễn.
Dự thảo Luật sửa đổi lần này hướng đến việc nâng cao hiệu quả quản lý chất lượng sản phẩm, đồng thời tăng cường bảo vệ quyền lợi người tiêu dùng.
BỎ QUY ĐỊNH HÀNG HÓA NHÓM 2 VÀ ÁP DỤNG QUẢN LÝ RỦI RO
Góp ý tại hội thảo, ông Nguyễn Hồng Uy, Trưởng nhóm Kỹ thuật Tiểu ban Thực phẩm và Dinh dưỡng, Hiệp hội Doanh nghiệp châu Âu tại Việt Nam (Eurocham), cho rằng có sự chồng chéo, mâu thuẫn rất nhiều giữa Luật chất lượng sản phẩm, hàng hóa với các luật chuyên ngành.
Đáng lẽ chúng ta phải coi Luật Chất lượng sản phẩm, hàng hóa là cái gốc, từ đó việc quản lý chất lượng của các sản phẩm chuyên ngành phải dựa theo đó. Luật An toàn thực phẩm quy định: tất cả các sản phẩm thực phẩm phải công bố hợp quy; trong khi hiện có hàng chục nghìn sản phẩm thực phẩm, nhưng đến nay Bộ Y tế mới có 65 quy chuẩn, như vậy vênh nhau quá lớn.
Với Luật Dược, chữ “quy chuẩn” hoàn toàn không có trong Luật Dược, mà chỉ là tiêu chuẩn (thuốc Việt Nam theo dược điển Việt Nam, nhập từ Mỹ theo dược điển Mỹ…). Một luật gọi là luật gốc, luật mẹ đưa ra nhưng rất nhiều luật chuyên ngành không tuân thủ được.
Theo ông Nguyễn Hồng Uy, dự thảo cần làm rõ vấn đề hàng hóa nhóm 2 (là sản phẩm, hàng hóa có khả năng gây mất an toàn). Trước đây đưa ra 3 chỉ tiêu, giờ dự thảo đưa ra 7 chỉ tiêu, nhưng hoàn toàn “mù mờ” không xác định được.
Định nghĩa về sản phẩm nhóm 2 trên thế giới chưa nước nào có, chỉ gần tương tự là có ở Mỹ và EU, song họ quy định chỉ 9 loại là chất nổ, khí nén, chất lỏng dễ cháy, khí rắn dễ cháy,…; còn đối với Việt Nam, gạo, ngô, khoai sắn… đều cho vào nhóm 2.
Do đó, ông Uy đề nghị cần làm theo Nghị quyết số 02/NQ-CP (ngày 8/1/2025) của Chính phủ, đó là áp dụng đầy đủ nguyên tắc quản lý rủi ro dựa theo mức độ tuân thủ của doanh nghiệp và mức độ rủi ro của hàng hóa.
Ngoài ra, ông Uy bổ sung thêm điểm thứ 3 là các cảnh báo của quốc tế và các dấu hiệu vi phạm. Nếu cơ quan kiểm tra nhận được cảnh báo quốc tế hoặc nhìn, nhận thấy dấu hiệu vi phạm hàng hóa thì lập tức kiểm tra chứ không thể coi tất cả hàng hóa như nhau.

Ông Uy dẫn ví dụ như sự việc gần đây, sầu riêng Việt Nam xuất sang Trung Quốc không vấn đề gì. Nhưng khi Trung Quốc phát hiện sầu riêng Thái Lan xuất sang nước này có dư lượng chất vàng O, lập tức Trung Quốc kiểm tra 100% lô hàng sầu riêng nhập khẩu của cả Việt Nam. Sau thời gian ngắn, khi không phát hiện chất vàng O trong sầu riêng Việt Nam thì việc kiểm tra được gỡ bỏ, xuất khẩu về trạng thái bình thường. Do đó, ông Uy kiến nghị bỏ quy định hàng hóa nhóm 2 và áp dụng quản lý rủi ro.
COI TRỌNG GIẤY TIỀN KIỂM BỎ QUA HẬU KIỂM
Vấn đề công bố hợp quy, theo ông Uy, thực chất chỉ là thủ tục tiền kiểm, hầu như không có ý nghĩa trên thực tiễn, chỉ dựa trên phiếu kiểm nghiệm của một lô hàng, mà bản thân phòng kiểm nghiệm ghi rõ “kết quả chỉ có giá trị trong mẫu đem thử", nhưng chúng ta lại biến nó thành giấy chứng nhận cho hàng trăm, hàng nghìn lô hàng hóa.
"Chúng ta coi trọng giấy tiền kiểm đó mà bỏ qua hậu kiểm. Hậu quả như vụ giá đỗ ngậm chất kích thích thời gian qua tại siêu thị Bách Hóa Xanh. Cơ sở sản xuất có đầy đủ giấy chứng nhận, nhưng trong 3-4 năm kể từ khi sản xuất không có cơ quan chức năng nào đến thực hiện hậu kiểm. Người tiêu dùng thấy có giấy chứng nhận là yên tâm mua, nhưng thực chất nếu giấy chứng nhận mà không có hậu kiểm lại trở thành công cụ để lừa người tiêu dùng của những đối tượng trục lợi", ông Uy nêu thực tế.
Nhìn ra EU chúng ta thấy đa phần sản phẩm hàng hóa là do doanh nghiệp tự xác nhận nhưng nhà nước hậu kiểm, nếu phát hiện vi phạm thì phạt rất nặng.
Vì thế, ông Uy đề nghị, cần thực hiện ngay chỉ đạo của Tổng Bí thư giảm 30% thủ tục hành chính và thực hiện Nghị quyết 02 chuyển từ tiền kiểm sang hậu kiểm, mạnh dạn bỏ chứng nhận hợp quy. Thay vào đó, áp dụng quản lý rủi ro theo bản chất hàng hóa để phân loại. Hàng hóa có nguy cơ cao, nhạy cảm cao thì phải đăng ký lưu hành, còn những loại hàng hóa khác thì doanh nghiệp tự công bố chất lượng và Nhà nước tiến hành hậu kiểm. Quy định này áp dụng cho cả hàng hóa nhập khẩu và hàng hóa lưu hành trên thị trường.
Ngoài ra, trong Điều 35 của Luật hiện hành có quy định “kiểm tra hàng hóa nhập khẩu”, nhưng cũng chưa hề thấy “bóng dáng” của quản lý rủi ro. Trong luật hiện hành, hàng hóa nhóm 1 không nói tới kiểm tra chất lượng hàng hóa nhập khẩu. "Như vậy, luật quá chật với hàng hóa nhóm 2 nhưng lại quá lỏng với hàng hóa nhóm 1. Đề nghị đưa quản lý rủi ro vào Điều 35 của Luật hiện hành”, ông Uy kiến nghị.
Hơn nữa, Điều 23 và Điều 27 của Luật hiện hành chưa có quy định về tự công bố sản phẩm thay cho đăng ký lưu hành đang được áp dụng rộng rãi trong thực tiễn, cụ thể là Nghị định 15/2018 cho ngành thực phẩm (90% sản phẩm thực phẩm tự công bố) đã giúp ngành thực phẩm phát triển mạnh mẽ. Nhưng đến giờ điều này chưa được thừa nhận trong Luật Chất lượng sản phẩm, hàng hóa mà mới chỉ có trong Nghị định, nên đại diện EuroCham rất mong được đưa vào trong thời gian tới.
Thêm nữa, vướng mắc của Luật hiện hành không được sửa trong dự thảo là điều 23: Công bố tiêu chuẩn áp dụng. Ở đây đang quy định “người sản xuất, người nhập khẩu tự công bố các đặc tính cơ bản, thông tin cảnh báo, số hiệu tiêu chuẩn trên hàng hóa” (có từ năm 2017), nhưng đa phần doanh nghiệp ghi số đăng ký, số chứng nhận công bố hợp chuẩn – hợp quy… “Như vậy, tới 90% doanh nghiệp đang không tuân thủ theo luật vì không thể áp dụng được. Điều này cần được sửa trong luật mới”, ông Uy kiến nghị.
Trước các góp ý trên, Chủ tịch VCCI nhận định việc hoàn thiện khung khổ pháp lý về quản lý chất lượng sản phẩm là yếu tố quan trọng, không chỉ nâng cao uy tín của hàng hóa Việt Nam trên thị trường trong nước và quốc tế, mà còn góp phần thúc đẩy sự phát triển bền vững của doanh nghiệp.
“Chúng tôi cho rằng cơ chế quản lý chất lượng sản phẩm, hàng hóa cần được thiết kế theo hướng hài hòa giữa yêu cầu quản lý nhà nước và tạo thuận lợi cho hoạt động sản xuất, kinh doanh của doanh nghiệp. Việc chuyển đổi mạnh mẽ sang cơ chế hậu kiểm, đơn giản hóa thủ tục hành chính, cắt giảm chi phí tuân thủ sẽ giúp khuyến khích đổi mới sáng tạo, thúc đẩy sản xuất và đưa sản phẩm mới ra thị trường nhanh chóng hơn”, ông Công nhấn mạnh.