Theo nội dung vụ việc, ngày 17/1/2024, bà L.T.H.V. đã ra Ngân hàng S. – Phòng giao dịch Cầu Diễn để mở tài khoản với số tài khoản là 09XXXXXXX3. Sau khi mở tài khoản ngân hàng, bà V. có ký Đơn đăng ký dịch vụ ngân hàng điện tử (Dành cho khách hàng cá nhân) với số điện thoại được đăng ký trong đơn là 09XXXXXXX3.
Bà V. cho biết, khi đó, nhân viên ngân hàng chưa hỗ trợ bà đăng ký dịch vụ Internet Banking ở điện thoại của bà V. Sau đó, bà V. không tiếp tục tự đăng ký, không nhờ bất kỳ ai đăng ký dịch vụ Internet Banking trên điện thoại của mình.
Trong ngày 17 và 18/1/2024, bà V. có 2 lần chuyển tiền vào tài khoản số 09XXXXXXX3 với tổng số tiền là 1,77 tỷ đồng.
Từ ngày 17/1/2024 đến 22/1/2024, bà V. không thực hiện bất kỳ ủy nhiệm chi cũng như giao dịch chuyển tiền nào trên app dịch vụ Internet Banking của Ngân hàng S. vì bà V. chưa đăng ký được dịch vụ này. Bà V. không cho ai khác sử dụng điện thoại của mình.
Tuy nhiên, ngày 22/1/2024, khi tới Ngân hàng S. - Phòng giao dịch Cầu Diễn kiểm tra lại tài khoản thì bà V. thấy số tiền của mình không còn. Toàn bộ số tiền 1,77 tỷ đồng đã bị chuyển đi vào các số tài khoản khác với nội dung “Trả nợ” bằng 5 giao dịch, trong đó có 2 giao dịch vào ngày 17/1/2024 và 3 giao dịch vào ngày 18/1/2024.
Bà V. khẳng định, toàn bộ nội dung chuyển tiền bao gồm thời gian chuyển tiền, tên người nhận, số tài khoản, nội dung chuyển bà đều không biết, không đồng ý thực hiện.
Ngày 22/1/2024, bà V. đã gửi Đơn đề nghị lần 1 đến ngân hàng để yêu cầu ngân hàng trả lại tiền cho bà.
Cùng ngày, bà V. cũng có đơn trình báo đến Phòng Cảnh sát hình sự - Công an TP Hà Nội.
Theo đó, bà V. trình bày, ngày 18/1/2024, bà V. có nhận được một cuộc gọi đến với nội dung thông báo bà có liên quan đến vụ việc buôn bán ma túy ở quận Tây Hồ. Theo lời người gọi, để đảm bảo an toàn cho cá nhân và gia đình, bà V. phải kê khai tài sản và chuyển tiền sang số tài khoản được chỉ định.
Tuy nhiên, bà V. nói bà có 2 quyển sổ tiết kiệm và hiện nay có 1 sổ sắp đến hạn. Người gọi có hướng dẫn bà V. dùng sổ sắp đến hạn để vay tiền tại Ngân hàng V., còn số kia thì tất toán và chuyển sang Ngân hàng S. Vì vậy, ngày 17/1/2024, bà V. đã ra Ngân hàng S. để mở tài khoản và chuyển 500 triệu đồng vào tài khoản này. Ngày 18/1/2024, bà V. ra Ngân hàng V. và làm khoản vay 1,27 tỷ đồng và chuyển sang tài khoản S.
Ngày 25/1/2024, Ngân hàng S. đã có công văn phản hồi. Tại công văn này, ngân hàng khẳng định rằng Hệ thống ngân hàng xác nhận số điện thoại của bà V. đã nhận được 2 tin nhắn về việc đã đăng ký thành công dịch vụ S. Online và S. Mobile vào lúc 10:57:10 ngày 17/1/2024 và ngân hàng hoàn toàn thực hiện đúng các quy trình theo quy định pháp luật.
Tuy nhiên, ngày 17/1/2024, máy điện thoại của bà V. không nhận được tin nhắn nào. Điều này thể hiện tại Thư trả lời yêu cầu cung cấp dịch dữ liệu của số thuê bao 09XXXXXXXX3, do Công ty dịch vụ Mobifone khu vực 1 phát hành ngày 7/2/2024, về lịch sử giao dịch của số thuê bao 09XXXXXXXX3, bà V. không nhận được tin nhắn nào trong các ngày 16, 17, 18/1/2024.
Còn theo công văn ngày 13/3/2024, Ngân hàng S. khẳng định, bà V. đã đăng ký thành công dịch vụ S. Mobile. “Việc tải app S. Moblie, quý khách hàng có thể thực hiện trên bất kỳ thiết bị điện tử nào chạy hệ điều hành IOS hoặc Android”, nội dung công văn ngân hàng trả lời bà V.
Ngoài ra, Ngân hàng đã thực hiện kiểm tra lịch sử gửi tin nhắn tới số điện thoại 09XXXXXXXX3. Tại công văn số 610 ngày 8/3/2024 do Trung tâm dịch vụ số Mobifone – Chi nhánh Tổng công ty viễn thông Mobifone xác nhận về việc Hệ thống S. đã gửi thành công 11 tin nhắn tới số thuê bao 09XXXXXXXX3.
Mặt khác, trong công văn này, phía ngân hàng cho rằng, các giao dịch chuyển tiền của bà V. có dấu hiệu lừa đảo chiếm đoạt tài sản của tội phạm công nghệ cao và hiện cơ quan điều tra đã tiếp nhận điều tra vụ việc.
Được biết, hiện, bà V. đã tiến hành thủ tục khởi kiện vụ việc trên ra tòa án.