Dự thảo Luật Bảo hiểm xã hội (sửa đổi) đã bổ sung quy định chuyển tiếp liên quan tới người tham gia bảo hiểm xã hội tự nguyện trước khi Luật mới có hiệu lực (dự kiến từ 1/7/2025).
Cụ thể, người lao động bắt đầu tham gia bảo hiểm xã hội tự nguyện từ trước ngày Luật này có hiệu lực thi hành và có đủ 20 năm đóng bảo hiểm xã hội tự nguyện trở lên thì được hưởng lương hưu khi đủ 60 tuổi đối với nam, đủ 55 tuổi đối với nữ. Khi nghỉ hưu ở tuổi này, người tham gia bảo hiểm xã hội tự nguyện không bị trừ tỷ lệ hưởng lương hưu như với trường hợp nghỉ hưu trước tuổi.
Trong khi đó, với người tham gia bảo hiểm xã hội bắt buộc, để được hưởng lương hưu ngoài điều kiện về thời gian đóng bảo hiểm xã hội hiện hành là tối thiểu 20 năm, thời gian tới có thể giảm xuống 15 năm (theo đề xuất tại dự thảo Luật sửa đổi), thì còn phải đạt điều kiện tuổi nghỉ hưu theo Bộ luật Lao động.
Từ năm 2021, tuổi nghỉ hưu được điều chỉnh tăng theo lộ trình mỗi năm tăng thêm 3 tháng với nam, 4 tháng với nữ cho đến khi nam đủ 62 tuổi vào năm 2028 và nữ đủ 60 tuổi vào năm 2035. Năm 2023 là năm thứ 3 thực hiện điều chỉnh tăng tuổi nghỉ hưu, lao động nam sẽ nghỉ hưu từ đủ 60 tuổi 9 tháng, nữ từ đủ 56 tuổi. Trường hợp nghỉ hưu trước tuổi thì mỗi năm về hưu trước tuổi sẽ bị trừ tỷ lệ 2% mức hưởng lương hưu.
Theo thống kê của Bảo hiểm xã hội Việt Nam, tính đến hết năm 2022, cả nước có hơn 1,46 triệu người tham gia bảo hiểm xã hội tự nguyện, tăng 1% so với năm 2021.
Nhằm tăng tính hấp dẫn, thu hút người dân tham gia bảo hiểm xã hội tự nguyện, ngoài đề xuất thay đổi về điều kiện hưởng lương hưu như trên, dự thảo Luật Bảo hiểm xã hội (sửa đổi) cũng bổ sung chế độ thai sản vào chính sách bảo hiểm xã hội tự nguyện.
Theo đó, người lao động tham gia bảo hiểm xã hội tự nguyện (bao gồm cả lao động nữ và lao động nam) khi sinh con nếu đáp ứng đủ điều kiện đóng bảo hiểm xã hội từ đủ 6 tháng trở lên trong thời gian 12 tháng trước khi sinh con, thì được hưởng trợ cấp bằng 2 triệu đồng cho một người con.
Chế độ trợ cấp thai sản của bảo hiểm xã hội tự nguyện do ngân sách nhà nước đảm bảo, người tham gia bảo hiểm xã hội tự nguyện sẽ không phải đóng thêm so với hiện hành.
Thẩm tra nội dung này trong dự án Luật, Thường trực Ủy ban Xã hội của Quốc hội đánh giá quy định trợ cấp thai sản đối với người tham gia bảo hiểm xã hội tự nguyện ở mức 2 triệu đồng là chưa phù hợp với thực tế, đây là mức hỗ trợ được triển khai từ năm 2015. Do đó, để thu hút người lao động sớm tham gia vào hệ thống bảo hiểm xã hội, đề nghị Chính phủ nghiên cứu nâng mức hỗ trợ này lên mức phù hợp hơn.
Về trợ cấp thai sản đối với người lao động tham gia bảo hiểm xã hội tự nguyện, Thường trực Ủy ban Xã hội nhận thấy các quy định của chế độ trợ cấp thai sản mới chỉ chú trọng vào lợi ích vật chất mà người lao động tham gia bảo hiểm xã hội tự nguyện được hưởng, chưa chú trọng đến những quyền lợi cũng rất quan trọng như được nghỉ việc để đi khám thai, nghỉ việc khi thực hiện biện pháp tránh thai, nghỉ dưỡng sức, phục hồi sức khoẻ sau thai sản, nghỉ việc khi đình chỉ thai nghén…
Uỷ ban Xã hội cho rằng đây là những lợi ích rất cần thiết đối với người lao động nữ khi mang thai, đồng thời thể hiện được tính bình đẳng giữa các chế độ bảo hiểm xã hội trong hệ thống bảo hiểm xã hội quốc gia.
Bên cạnh đó, để khuyến khích lao động phi chính thức và lao động di cư tham gia bảo hiểm xã hội tự nguyện, Uỷ ban Xã hội cũng đề nghị Cơ quan chủ trì soạn thảo tiếp tục nghiên cứu kinh nghiệm quốc tế đối với các chế độ trợ cấp cho trẻ em là con người lao động tham gia bảo hiểm xã hội tự nguyện như: giảm giá/miễn phí tiêm chủng, hỗ trợ học phí, chi phí học tập cho trẻ đang trong độ tuổi đến trường...
Theo Bảo hiểm xã hội Việt Nam, hiện nay khi tham gia bảo hiểm xã hội tự nguyện, người dân không chỉ được Nhà nước hỗ trợ mức đóng mà còn được hưởng nhiều quyền lợi khác như: có cơ hội được hưởng lương hưu hàng tháng và được cấp thẻ bảo hiểm y tế miễn phí để đảm bảo cuộc sống và chăm sóc sức khỏe khi hết tuổi lao động; người thân được nhận chế độ tử tuất khi chẳng may người tham gia qua đời.
Người lao động có thể lựa chọn đóng định kỳ hằng tháng; 3 tháng một lần; 6 tháng một lần; 12 tháng một lần; nhiều năm một lần (không quá 5 năm/lần). Hoặc đóng 1 lần cho những năm còn thiếu (không quá 10 năm) để đủ điều kiện hưởng lương hưu.