June 01, 2022 | 09:12 GMT+7

More effort needed to improve workplace productivity

Dũng Hiếu -

In order to improve workplace productivity, which is still much lower in Vietnam than in many Asian countries, it is necessary to adopt flexible solutions in terms of both macro- and micro-economic factors. The important issues are training, to systematically improve the quality of human resources, and forming a startup ecosystem.

Photo: Illustration
Photo: Illustration

Trong hai thập kỷ vừa qua, Việt Nam đã có nhiều nỗ lực để cải thiện năng suất lao động. Trong đó việc dịch chuyển cơ cấu kinh tế từ nông nghiệp sang công nghiệp đóng góp vai trò quan trọng. Tuy nhiên, đến nay sự đóng góp này có lẽ đã đến điểm bão hòa cho nên Việt Nam phải tìm ra cách giải mới để tăng năng suất lao động.

KHOẢNG CÁCH NĂNG SUẤT LAO ĐỘNG THẤP SO VỚI MỘT SỐ NƯỚC

Nhìn vào số liệu thông kê, năm 2000 Việt Nam có 65,3% lực lượng lao động thuộc lĩnh vực nông nghiệp nhưng đến năm 2020, tỷ trọng hai phần ba thuộc lĩnh vực nông nghiệp đó đã giảm xuống còn 37,2%, tăng thêm lao động cho lĩnh vực dịch vụ và công nghiệp. Những năm trước lĩnh vực nông nghiệp tuyển dụng nhiều lao động nhất, đến nay lĩnh vực dịch vụ và nông nghiệp tuyển dụng số lao động gần tương đương nhau (lần lượt là 37,3% và 37,2%) và theo sát là lĩnh vực công nghiệp (25,5%). Con số này cũng phần nào lý giải năng suất lao động của Việt Nam bình quân giai đoạn 2016-2020 tăng 5,8%/năm, cao hơn giai đoạn 2011-2015 (4,3%).

Còn năng suất lao động của Việt Nam năm 2020 tính theo giá so sánh năm 2010 chỉ tăng 5,4% (so với mức tăng 6,2% năm 2019 và ở mức thấp nhất trong 5 năm gần đây), đạt mức 117,94 triệu đồng/lao động theo giá hiện hành (tương đương 5.081 USD/lao động). Mức tăng này cao hơn khi so sánh với các quốc gia trong khu vực. Phân tích thêm yếu tố đổi mới công nghệ, hợp lý hóa sản xuất, cải tiến quản lý, nâng cao trình độ lao động... được phản ánh trong “Năng suất nhân tố tổng hợp” (TFP) là chỉ tiêu phản ánh kết quả sản xuất mang lại do nâng cao hiệu quả sử dụng vốn và lao động thì TFP bình quân 5 năm đạt khoảng 45,2% (mục tiêu đề ra là 30-35%).

Đó cũng là kết quả của việc chuyển đổi mô hình tăng trưởng chuyển dịch từ chiều rộng sang chiều sâu, giảm dần sự phụ thuộc vào khai thác tài nguyên, xuất khẩu thô, lao động giá rẻ, mở rộng tín dụng…, từng bước chuyển sang dựa vào ứng dụng khoa học, công nghệ và đổi mới sáng tạo. Nếu so sánh với các nước trong khu vực và trên thế giới, theo Tổ chức Lao động quốc tế (ILO), tốc độ tăng năng suất lao động của Việt Nam giai đoạn 2011-2020 là 5,11%, cao hơn mức trung bình của ASEAN (3,11%) và cao hơn hầu hết các quốc gia ASEAN. Tuy nhiên, tốc độ này vẫn thấp hơn mức tăng của Trung Quốc (7%) và Ấn Độ (6%).

Mặc dù có mức tăng trưởng năng năng suất lao động cao, nhưng Việt Nam vẫn chưa theo kịp để có thể thu hẹp khoảng cách với các quốc gia khác. Cụ thể, theo ước tính của ILO, năng năng suất lao động của Việt Nam thấp hơn 7 lần so với Malaysia; 4 lần so với Trung Quốc; 3 lần so với Thái Lan, 2 lần so với Philippines và 26 lần so với Singapore. Báo cáo năm 2020 của Tổ chức Năng suất châu Á (APO) cũng cho thấy, năng suất lao động Việt Nam tụt hậu so với Nhật Bản 60 năm, so với Malaysia 40 năm và Thái Lan 10 năm.

Tăng năng suất lao động: Bài toán khó vẫn có cách giải - Ảnh 1

Nhận xét về năng suất lao động Việt Nam thời gian qua, ông Nguyễn Đức Thành, Giám đốc Trung tâm Nghiên cứu kinh tế và Chiến lược (VESS), đánh giá năng suất tuyệt đối của khu vực chế biến chế tạo - cốt lõi của khu vực công nghiệp lại không tăng theo thời gian mà lại “kẹt” lại trong suốt 20 năm từ năm 2000 đến nay. Không có sự tăng trưởng vượt bậc cùng với đó, tăng trưởng năng suất của khu vực FDI cũng chững lại. Trong khi đó, tăng trưởng năng suất lao động của khu vực tư nhân vẫn đều đặn. Điều này cho thấy Việt Nam cần phải có nhiều nỗ lực mạnh mẽ hơn nữa trong việc cải thiện năng suất quốc gia.

CẦN CÓ GIẢI PHÁP LINH HOẠT TẠO ĐỘT PHÁ

Trước thực tế  năng suất lao động tại Việt Nam vẫn còn một khoảng cách xa  so với một số nước châu Á, cần  rút ra bài học kinh nghiệm để có những giải pháp linh hoạt  nâng cao năng suất lao động. Đối với Việt Nam cần xác định rõ các vấn đề trọng tâm liên quan đến tăng năng suất lao động rồi  từ đó  tìm con đường ngắn nhất tạo những bước đi đột phá tăng  năng suất lao động.

Từ kinh nghiệm của các nước, có thể thấy rõ năng suất lao động được đo bằng tổng hòa hai yếu tố vĩ mô và vi mô. Trong yếu tố vĩ mô nó phụ thuộc vào quy mô nền kinh tế, thể chế, cơ chế chính sách. Còn  yếu tố vi mô là quy mô, nội lực của doanh nghiệp, khả năng ứng dụng những thành tựu khoa học công nghệ vào sản xuất kinh doanh; chất lượng nguồn nhân lực, kỹ năng của người lao động, khả năng sử dụng nhân lực của doanh nghiệp, của chủ thể sử dụng lao động…

Do đó, Việt Nam đã, đang triển khai các nhiệm vụ khoa học và công nghệ cấp quốc gia, hỗ trợ doanh nghiệp trong nghiên cứu, đổi mới, chuyển giao và ứng dụng công nghệ để nâng cao năng suất. Xây dựng, triển khai các nhiệm vụ khoa học và công nghệ, kế hoạch nâng cao năng suất lao động, năng suất các nhân tố tổng hợp (TFP) dựa trên nền tảng khoa học, công nghệ và đổi mới sáng tạo. Đồng thời đẩy mạnh cải cách thể chế; tiếp tục đẩy mạnh phát triển nguồn nhân lực chất lượng cao gắn với đổi mới sáng tạo. Trong đó, giải pháp đầu tiên là cần phải nhanh chóng gia tăng quy mô nền kinh tế (quy mô GDP), duy trì tốc độ tăng trưởng kinh tế bình quân tăng cao và ổn định. Cơ cấu kinh tế phải chuyển dịch nhanh theo hướng tiến bộ, theo đó cơ cấu công nghiệp - xây dựng và dịch vụ trong nền kinh tế phải chiếm tỷ trọng lớn hơn khu vực nông lâm thuỷ sản (gia tăng những ngành/lĩnh vực có giá trị gia tăng cao). Kèm theo đó, cần tạo ra nhiều việc làm và giải quyết việc làm đảm bảo toàn dụng lao động. Huy động tối đa lực lượng lao động trong độ tuổi tham gia hoạt động kinh tế; giảm thiểu tình trạng thất nghiệp.

Tiếp đó, đẩy mạnh cải cách thể chế, tiếp tục xây dựng Chính phủ kiến tạo, hành động. Xây dựng Chính phủ số. Phải hình thành cho được hệ sinh thái khởi nghiệp. Tạo môi trường đầu tư kinh doanh minh bạch, thuận lợi, lấy doanh nghiệp, người dân làm trung tâm của sự phát triển. Doanh nghiệp và người dân là chủ thể chính quyết định đến vấn đề nâng cao năng suất lao động. Do đó, một mặt cần tiếp tục đẩy mạnh thu hút đầu tư, mặt khác cần khuyến khích phát triển, hình thành nhiều doanh nghiệp, nhất là các doanh nghiệp kinh doanh hàng hoá, dịch vụ tạo giá trị gia tăng cao. Có thể tạo bước tạo đột phá chính là các doanh nghiệp tiên phong, đi đầu, chủ động trong đổi mới sáng tạo, ứng dụng những thành tựu của cuộc CMCN 4.0 vào hoạt động sản xuất kinh doanh tạo động lực dẫn dắt sự phát triển kinh tế.

Song song với các giải pháp  cần kết hợp kinh nghiệm của các nước có năng suất lao động cao như Nhật Bản. Ông Shimizu Akira, Trưởng đại diện Văn phòng Cơ quan Hợp tác phát triển quốc tế Nhật Bản (JICA) tại Việt Nam, cho biết: JICA đã hỗ trợ Singapore về kinh nghiệm tăng năng suất trong giai đoạn từ 1983-1990 theo yêu cầu của Chính phủ Singapore. Kết quả đến nay năng suất lao động của Singapore đứng hàng đầu khu vực, thậm chí bắt đầu chia sẻ kinh nghiệm với các nước khác. Kinh nghiệm của người Nhật là phải hỗ trợ người lao động “cài đặt” lại nhận thức của mình và đòi hỏi cam kết chặt chẽ từ cả 2 phía thực hiện để cải thiện năng suất lao động.

Vấn đề quan trọng là đào tạo nâng cao chất lượng nguồn nhân lực một cách có hệ thống được quản lý chặt chẽ khoa học từ dạy nghề, đến đại học hoặc cao hơn phù hợp cho mọi đối tượng, lứa tuổi. Hiện Việt Nam cũng đang thực hiện nhiều chương trình dự án nâng cao chất lượng nguồn nhân lực từ các nước như Nhật, Australia…

Attention
The original article is written and published on VnEconomy in Vietnamese only. To read the full article, please use the Google Translate tool below to translate the content into your preferred language.
VnEconomy is not responsible for the translation.

Google translate