Ngày 20/6/2024, Viện nghiên cứu Kinh tế và Chính sách (VEPR) trực thuộc Trường Đại học Kinh tế - Đại học Quốc gia Hà Nội phối hợp với Viện Friedrich Naumann Foundation (FNF) Việt Nam tổ chức hội thảo Công bố Báo cáo Kinh tế thường niên Việt Nam 2024. Đây là sản phẩm của VEPR trực thuộc Trường Đại học Kinh tế - Đại học Quốc gia Hà Nội, được xuất bản và công bố liên tục trong 16 năm qua.
Báo cáo Thường niên Kinh tế Việt Nam 2024 với chủ đề “Chuyển dịch năng lượng hướng tới nền kinh tế xanh”.
Năm 2024, báo cáo tập trung vào 5 nội dung chính:
Thứ nhất: Báo cáo đưa ra bức tranh toàn cảnh kinh tế thế giới năm 2023 và gần nửa đầu năm 2024, tổng quan về một số nền kinh tế lớn và có mối quan hệ chặt chẽ với Việt Nam, triển vọng kinh tế thế giới năm 2024 và xu hướng chuyển dịch năng lượng tái tạo trên toàn cầu.
Thứ hai: Bức tranh tổng quan kinh tế Việt Nam năm 2023 và gần nửa đầu năm 2024: về tăng trưởng kinh tế, lạm phát, các thị trường tiền tệ, tín dụng, tài chính, lao động và năng lượng.
Thứ ba: Đánh giá mối quan hệ giữa chuyển dịch năng lượng tái tạo và tăng trưởng kinh tế. Cụ thể, tác động của chuyển dịch năng lượng tái tạo tới tăng trưởng kinh tế như GDP, tỷ lệ việc làm và sự phát triển các ngành công nghiệp liên quan.
Thứ tư: Báo cáo nghiên cứu kinh nghiệm quốc tế ở các quốc gia như Anh, Đức, Trung Quốc về chuyển dịch năng lượng tái tạo và đưa ra giải pháp thúc đẩy chuyển dịch năng lượng tái tạo tại Việt Nam.
Thứ năm: Ấn phẩm năm 2024 nhấn mạnh việc tự do hóa thị trường bán điện trực tiếp để thúc đẩy phát triển điện mặt trời mái nhà tại Việt Nam. Bao gồm đưa lý thuyết và nghiên cứu kinh nghiệm quốc tế về xây dựng thị trường mua bán điện cạnh tranh trực tiếp (PDDA) áp dụng trong điện mặt trời mái nhà, nêu lên rào cản và khó khăn khi áp dụng cơ chế mua bán điện trực tiếp đối với điện mái nhà tại các khu công nghiệp, từ đó đề xuất chính sách để thực hiện và áp dụng cơ chế mua bán điện cạnh tranh và trực tiếp tại các khu công nghiệp đáp ứng tiêu chuẩn xuát khẩu xanh.
KINH TẾ TOÀN CẦU CÒN NHIỀU RỦI RO
Đưa ra bức tranh tổng quan kinh tế thế giới năm 2023 và nửa đầu năm 2024, báo cáo cho thấy năm 2023 kinh tế toàn cầu phục hồi chậm nhưng vượt các dự báo trước đó. Lạm phát giảm nhưng còn nhiều thách thức.
Theo TS Nguyễn Thị Vũ Hà, Trường Đại học Kinh tế - Đại học Quốc gia Hà Nội (nhóm tác giả báo cáo), năm 2023, thương mại toàn cầu giảm 1,2% so với năm trước, thấp nhất trong vòng 50 năm qua. Thương mại hàng hoá và thương mại dịch vụ tăng trưởng ngược chiều nhau. Số lượng các biện pháp hạn chế thương mại mới vẫn cao hơn mức trước đại dịch.
Điều kiện tài chính vẫn còn thắt chặt, các đồng tiền chủ chốt biến động ngược chiều nhau, gánh nặng nợ tăng cao và một loạt ngân hàng lớn phá sản.
Bước sang năm 2024, báo cáo nhận định, kinh tế toàn cầu đang dần ổn định nhưng ẩn chứa nhiều rủi ro về chính trị, kinh tế và công nghệ... Phân mảnh địa kinh tế ngày càng rõ nét. Chuỗi cung ứng toàn cầu đối mặt với nhiều thách thức.
Lạm phát nửa đầu năm 2024 tiếp tục giảm nhưng chậm hơn so với dự báo và vẫn tồn tại các áp lực gia tăng trở lại. Ngoài ra là những rủi ro kinh tế, chính trị, chính sách, biến đổi khí hậu… Tăng trưởng năng suất lao động chậm kìm hãm sự phục hồi kinh tế toàn cầu…
Cùng với sự ảm đạm của kinh tế thế giới năm 2023, Báo cáo thường niên kinh tế Việt Nam 2024 cũng lột tả rõ bức tranh kinh tế Việt Nam trong giai đoạn này.
Nhóm nghiên cứu của TS Nguyễn Thị Vĩnh Hà, Trường Đại học Kinh tế - Đại học Quốc gia Hà Nội, cho rằng tăng trưởng kinh tế Việt Nam được cải thiện trong nửa đầu năm 2024 nhưng tốc độ chậm và vẫn thấp hơn khoảng 1% so với mức tăng trưởng tiềm năng trước đại dịch Covid-19.
Ước tính của nhóm nghiên cứu, tăng trưởng GDP quý 2/2024 ước đạt 6% và 6 tháng đầu năm ước đạt 5,8%. Tuy nhiên, đà phục hồi của các khu vực kinh tế còn chậm và thiếu đồng đều, nhất là khu vực tiêu dùng trong nước vẫn chưa hoàn toàn phục hồi.
Báo cáo nhận định lạm phát có đà tăng nhưng vẫn trong tầm kiểm soát. Lạm phát trở lại đà tăng từ tháng 7/2023, tuy nhiên lạm phát bình quân vẫn thấp hơn ngưỡng mục tiêu.
Năm 2023, cầu trong nước và quốc tế suy yếu đã ảnh hưởng trực tiếp lên tổng cung. Nửa đầu năm 2024, tổng cung phục hồi, hỗ trợ tích cực cho đà tăng trưởng.
Tính chung 5 tháng đầu năm 2024, chỉ số sản xuất toàn ngành công nghiệp (IIP) ước tính tăng 6,8% so với cùng kỳ năm trước (cùng kỳ năm 2023 giảm 2,0 điểm %).
Trên thị trường tiền tệ, lãi suất giảm, áp lực tăng tỷ giá vẫn hiện hữu, giá vàng biến động mạnh. Trên thị trường tài chính, tăng trưởng tín dụng chậm, nợ xấu trong hệ thống tổ chức tín dụng tăng mạnh, đặc biệt nửa đầu năm 2024, thị trường chứng khoán sôi động hơn, giá bất động sản có xu hướng phục hồi.
ÁP LỰC KINH TẾ TRONG NƯỚC
Theo TS. Nguyễn Thị Vũ Hà, chính những bất ổn của kinh tế toàn cầu đã tác động ảnh hưởng tới Việt Nam cả về cơ hội và thách thức.
Về cơ hội, đó là Việt Nam có thể đẩy mạnh xuất khẩu hàng hoá và dịch vụ nhờ sự phục hồi kinh tế toàn cầu, đặc biệt ở các thị trường lớn như Mỹ, Trung Quốc, Hàn Quốc và ASEAN. Thu hút thêm FDI và tham gia sâu hơn vào chuỗi cung ứng toàn cầu.
Cùng với đó là cơ hội phát triển năng lượng tái tạo và công nghệ, các dự án xanh, AI, xe điện... do lĩnh vực ưu tiên thu hút đầu tư của Việt Nam phù hợp với xu hướng đầu tư quốc tế.
Thu hút nguồn nhân lực chất lượng cao do thị trường lao động toàn cầu phục hồi và cơ hội việc làm mới khi công nghệ số và trí tuệ nhân tạo (AI) ngày càng phát triển cũng là cơ hội cho Việt Nam.
Tuy nhiên, thách thức cũng không nhỏ. TS Vũ Hà chỉ rõ, đó là áp lực lạm phát toàn cầu và xu hướng tăng lãi suất có thể tác động đến chính sách tiền tệ trong nước và gia tăng chi phí vay nợ.
Bất ổn địa chính trị, xu hướng phân mảnh tiềm ẩn nhiều thách thức cho hoạt động thương mại và đầu tư, giảm cơ hội hợp tác và chia sẻ công nghệ giữa các quốc gia.
Cạnh tranh thu hút FDI ngày càng gay gắt đặc biệt khi Chỉ số tín nhiệm FDI toàn cầu của Việt Nam bị tụt hạng trong năm 2024 và thị trường Việt Nam chưa đủ sức hấp dẫn để thu hút đầu tư công nghệ cao.
Việc thiếu hụt lao động có kỹ năng, đặc biệt trong các lĩnh vực thiết yếu và công nghệ khiến Việt Nam gặp nhiều khó khăn trong chuyển dịch cơ cấu kinh tế.
Biến đổi khí hậu đang tạo ra các rào cản bảo hộ mới liên quan đến xanh hoá, tín chỉ carbon, bảo hộ ẩn náu dưới các chính sách ngành. Áp lực đầu tư lớn cho phát triển năng lượng tái tạo...
Do đó, báo cáo dự báo kịch bản tăng trưởng mục tiêu 6,5% khó có thể đạt được trong năm 2024 do sự thu hẹp trong khu vực công; cầu tiêu dùng còn yếu cả trong và ngoài nước, tác động tới chi tiêu khu vực tư nhân và tăng trưởng xuất khẩu; tỷ giá rủi ro tăng trong nửa cuối năm 2024 được thúc đẩy rủi ro lạm phát và giảm động lực đầu tư khu vực tư nhân.
GIẢI PHÁP ĐẠT MỤC TIÊU TĂNG TRƯỞNG KINH TẾ 6-6,5%
Tại hội thảo, PGS.TS Nguyễn Anh Thu, Phó Hiệu trưởng Trường Đại học Kinh tế, đã gợi mở một số khuyến nghị chính sách quan trọng.
Theo đó, các giải pháp trong ngắn hạn để đạt mục tiêu tăng trưởng kinh tế 6-6,5% năm 2024 là cần tiếp tục ưu tiên trọng tâm công cụ tài chính của chính sách tài khóa thúc đẩy tổng cầu; tăng cường giải ngân đầu tư công đảm bảo đúng tiến độ và tập trung, đặc biệt là các dự án cơ sở hạ tầng quan trọng.
Do động lực tiêu dùng nội địa còn yếu, vì vậy cần tiếp tục giảm thuế VAT trong năm 2024 cân nhắc mở rộng thêm đối tượng áp dụng. Có thêm chương trình và chính sách kích cầu tiêu dùng cụ thể, và cần đi theo hướng hỗ trợ trực tiếp người tiêu dùng thanh toán chi phí mua sản phẩm/dịch vụ, nhất là để định hướng tiêu dùng theo các xu hướng tiêu dùng xanh, sạch, bảo vệ môi trường góp phần thực thiện cam kết Net Zero vào năm 2050.
Tiếp thêm vốn cho các quỹ bảo lãnh tín dụng ở các địa phương, tăng cường cho vay tín chấp đối với các doanh nghiệp vừa và nhỏ. Thúc đẩy thực hiện xếp hạng tín nhiệm đối với doanh nghiệp vừa và nhỏ để làm căn cứ cho các quỹ có thể bảo lãnh tín chấp.
Đảm bảo hài hoà, hiệu quả trong mục tiêu tăng trưởng tín dụng hỗ trợ sản xuất – kinh doanh cho doanh nghiệp nói riêng, thúc đẩy tiêu dùng và phục hồi tăng trưởng nói chung. Thúc đẩy đa dạng hoá các kênh dẫn vốn và đầu tư ngoài tín dụng ngân hàng (nâng cao hiệu quả và tính minh bạch thị trường cổ phiếu, trái phiếu, các kênh dẫn vốn khác gắn với tín dụng xanh, chuyển dịch năng lượng công bằng, cho thuê tài chính...).
Với giải pháp trong trung và dài hạn, PGS.TS Nguyễn Anh Thu cho rằng cần hoàn thiện chiến lược chuyển đổi số quốc gia, thúc đẩy các yếu tố tạo giá trị gia tăng thực của nền kinh tế số, như công nghiệp phần mềm, kinh doanh nền tảng, thương mại điện tử để tạo ra động lực đổi mới sáng tạo.
Cần thúc đẩy đổi mới mô hình tăng trưởng, cơ cấu lại nền kinh tế. Bố trí nguồn lực thúc đẩy phát triển khoa học công nghệ và đổi mới sáng tạo; nâng cao năng suất lao động trong kế hoạch chi tiêu ngân sách, kế hoạch phát triển kinh tế-xã hội hàng năm (kể cả các dự án trong Chương trình phục hồi và phát triển kinh tế) nhằm tạo nền tảng cho tăng trưởng kinh tế bền vững.
Nghiên cứu hoàn thiện mô hình phát triển nhà ở xã hội để khắc phục những hạn chế hiện nay. Thành lập doanh nghiệp nhà nước chuyên thực hiện phát triển nhà ở xã hội (đầu tư, quản lý nhà ở xã hội). Phát triển nhà ở xã hội ngoài mục tiêu chính là hỗ trợ đảm bảo an sinh xã hội, còn có vai trò quan trọng trong hỗ trợ cân bằng thị trường bất động sản.
Bên cạnh đó, phát triển nhà ở xã hội là mục tiêu dài hạn, xuyên suốt và việc giao thị trường, nhất là khu vực tư nhân sẽ khó đảm bảo mục tiêu xã hội do tính thương mại và khó khăn trong triển khai dự án đầu tư và quản lý nhà ở xã hội giai đoạn vận hành.
Cần tiếp tục chú trọng các giải pháp kích thích đầu tư, nhất là đầu tư tư nhân để đảm bảo tổng mức đầu tư toàn xã hội đạt mức cao và mở rộng cung tiền hợp lý nhằm kích thích tăng trưởng, như tiếp tục thúc đẩy tăng trưởng tín dụng vào lĩnh vực ưu tiên.
Tập trung tháo gỡ các khó khăn trên thị trường bất động sản, gói tín dụng nhà ở xã hội và phát hành trái phiếu doanh nghiệp. Đồng thời, tiếp tục tăng cường cải cách hành chính, như các giao dịch dân sự, thủ tục đầu tư, phòng cháy chữa cháy...); cải thiện môi trường kinh doanh.
Để hỗ trợ doanh nghiệp, PGS.TS Nguyễn Anh Thu nhấn mạnh việc ưu tiên các chính sách và cải cách nhằm tháo gỡ khó khăn, giảm gánh nặng cho các doanh nghiệp, tạo dựng niềm tin vào môi trường đầu tư để khuyến khích doanh nghiệp quay lại thị trường và mở rộng quy mô.
Các chính sách hỗ trợ đặc biệt cho các doanh nghiệp cần cụ thể và khả thi (chính sách hỗ trợ xuất khẩu khá thành công). Về lâu về dài, các chính sách tổng thể nhằm nâng cao năng suất lao động, năng lực cạnh tranh của ngành, doanh nghiệp.