Theo Bộ Công Thương, dệt may và da giày là 2 ngành hàng sản xuất và xuất khẩu chủ lực của Việt Nam, có mức tăng trưởng bình quân trên 10%/năm. Năm 2022, kim ngạch dệt may xuất khẩu đạt trên 44 tỷ USD, còn da giày đạt trên 28 tỷ USD. Năm 2024, mặc dù vẫn chịu ảnh hưởng nặng nề của suy thoái kinh tế thế giới nhưng xuất khẩu của dệt may dự kiến vẫn đạt 44 tỷ USD và da giày 27 tỷ USD.
SỨC ÉP XANH HÓA TỪ NHIỀU PHÍA
Chia sẻ tại tọa đàm “Động lực xanh hóa chuỗi cung ứng dệt may, da giày” mới đây, ông Lê Xuân Thịnh, Giám đốc Công ty TNHH Trung tâm Sản xuất sạch hơn Việt Nam (VNCPC), cho rằng chuỗi giá trị dệt may, da giày hiện nay đã tham gia sâu rộng vào trong chuỗi giá trị toàn cầu. Phần lớn các sản phẩm dệt may của Việt Nam xuất khẩu đến hơn 100 thị trường và đây cũng chính là sức ép mà hiện nay các doanh nghiệp dệt may đang gặp phải.
Trong quá trình tham gia vào chuỗi giá trị toàn cầu, sức ép lớn nhất là sức ép về xu hướng. Phải đáp ứng các nhu cầu, yêu cầu về môi trường, hay như chúng ta hiện nay đang nói là “xanh hóa” sản phẩm, cũng như giảm phát thải khí nhà kính, phù hợp với tình trạng biến đổi khí hậu hiện nay.
Đối với các doanh nghiệp dệt may, thách thức hiện nay phải chịu là những sức ép từ quốc tế, từ nhãn hàng yêu cầu càng ngày càng khắt khe hơn đối với các sản phẩm trong vấn đề về sử dụng năng lượng, vấn đề tuần hoàn, tái chế chất thải, thiết kế sản phẩm để làm sao ngày càng bền vững hơn, sử dụng ít nguyên vật liệu hơn và sẵn sàng có thể thu hồi, tái chế lại sản phẩm để giảm tác động đến môi trường.
Sức ép nữa là từ các cam kết của quốc gia trong vấn đề về giảm phát thải khí nhà kính. Đối với Việt Nam, cam kết đến năm 2050 phát thải ròng bằng 0, như vậy doanh nghiệp dệt may cũng phải có lộ trình để hướng tới, đóng góp vào việc giảm phát thải khí nhà kính nói chung đó.
Hiện nay, ngành dệt may Việt Nam đang phát thải khoảng 5 triệu tấn CO2 hàng năm, do vậy phải có lộ trình cắt giảm. Trong Quyết định số 13/2024/QĐ-TTg của Thủ tướng Chính phủ vừa công bố, các doanh nghiệp phải kiểm kê khí nhà kính, trong đó có khoảng gần 100 doanh nghiệp dệt may, da giày phải kiêm kê khí nhà kính để hướng tới phát thải ròng bằng 0.
Không những phải chịu sức ép từ quốc tế, mà theo ông Thịnh, doanh nghiệp còn đối mặt với sức ép từ trong nước, đó là chi phí về năng lượng, nhân công, nguyên vật liệu ngày càng tăng. Các doanh nghiệp muốn cạnh tranh được bắt buộc phải sử dụng một cách có hiệu quả về năng lượng và nguyên vật liệu để cắt giảm các chi phí đó. “Thách thức cũng là động lực để cho các doanh nghiệp dệt may, da giày phải thay đổi. Chúng ta muốn phát triển bền vững, muốn đi được dài hơn thì phải có các lộ trình cắt giảm các chi phí liên quan đến nguyên vật liệu, tài nguyên, nước và có những biện pháp để tái chế, tuần hoàn, giúp doanh nghiệp cắt giảm các chi phí và phù hợp hơn với các tiêu chuẩn môi trường, cũng như sức ép đòi hỏi từ người tiêu dùng hiện nay”, ông Thịnh nói.
Đồng tình, bà Phan Thị Thanh Xuân, Phó Chủ tịch kiêm Tổng Thư ký Hiệp hội Da giày - Túi xách Việt Nam (Lefaso), chia sẻ ngành công nghiệp da giày là một ngành hội nhập rất lớn. Vì thế, việc đáp ứng các yêu cầu đối với các tiêu chuẩn bền vững, các doanh nghiệp, đặc biệt là doanh nghiệp lớn cũng đã thực hiện. Tuy nhiên, nếu trước đây yêu cầu về phát triển bền vững chủ yếu là do các nhãn hàng đặt ra, nhưng đến nay thì đã được luật hóa và với ngành công nghiệp da giày, các thị trường chính như Mỹ, EU… là những thị trường đòi hỏi rất cao.
Thị trường EU cũng bắt đầu đưa ra những yêu cầu về chuyển đổi xanh, đặc biệt là một loạt đạo luật đã được ban hành. Cụ thể như Đạo luật tra soát chuỗi cung ứng hay Đạo luật về chống phá rừng đã được thực hiện và sắp tới, hàng loạt các đạo luật mới như đạo luật về trách nhiệm mở rộng đối với nhà sản xuất, dán nhãn sinh thái, thiết kế sinh thái… Đây là một trong những thách thức rất lớn đối với ngành da giày khi mà hai thị trường này chiếm tới 70% kim ngạch xuất khẩu.
CẦN CÓ CƠ CHẾ KHUYẾN KHÍCH DOANH NGHIỆP
Trong chuỗi cung ứng xanh, ngành da giày cũng là một ngành thời trang, chính vì vậy sẽ phải phát triển từ khâu đầu tiên là khâu thiết kế. Ví dụ, đối với hãng Nike, họ đã đưa ra 10 quy tắc đối với khâu thiết kế. Mục đích là để ngay từ khi xây dựng ý tưởng đã phải hướng tới việc lựa chọn những vật liệu thân thiện với môi trường cũng như kiểm soát toàn bộ quá trình sản xuất, đảm bảo phát thải ít nhất, cũng như tái sử dụng được các vật tư, nguyên phụ liệu trong quá trình sản xuất.
Trước sức ép xanh hóa, các ý kiến đều nhận định đây là thách thức nhưng cũng là cơ hội cho doanh nghiệp chuyển đổi xanh, nâng cao năng lực cạnh tranh trong chuỗi cung ứng. Cụ thể, về cơ hội đó là sử dụng năng lượng một cách tiết kiệm, chất thải dệt may thông thường hoàn toàn có thể tạo ra các sản phẩm phụ để nâng cao giá trị giá tăng cho sản phẩm, hoặc sản phẩm không thể tận dụng được thì có thể làm nhiên liệu đốt cho lò hơi để phát điện…
Về thách thức, là nguồn vốn đầu tư cho các hạng mục phát triển xanh rất nhiều; năng lực công nghệ của lao động còn hạn chế; những hướng dẫn, tiêu chuẩn chuyển đổi xanh chưa có khiến doanh nghiệp lúng túng khi thực hiện…
Do đó, để vượt qua những thách thức cũng như nắm bắt được những cơ hội từ quá trình chuyển đổi sang xanh, ông Thịnh cho rằng hiện nay đã có Luật Bảo vệ môi trường, các nghị định, thông tư, nhưng chúng ta cũng phải xây dựng được những tiêu chuẩn cụ thể. Chẳng hạn như cần có tiêu chuẩn xanh cho ngành dệt may, da giày, những tài liệu hướng dẫn để doanh nghiệp có thể thực hiện được lộ trình của mình.
Bên cạnh đó, có những khuyến khích về các cơ chế tài chính, chẳng hạn như sau khi doanh nghiệp thực hiện xanh thì có những ưu đãi như thế nào, ưu đãi trong quá trình vay vốn, tiếp cận nguồn vốn, ưu đãi về thuế, hoặc ưu đãi được tiếp cận về mặt khoa học và công nghệ, các công nghệ điển hình trong ngành. Đồng thời, cần có những hỗ trợ, đặc biệt từ các hiệp hội để xây dựng được đội ngũ nhân lực cho quá trình chuyển đổi xanh này. Bởi hiện nay, đội ngũ nhân lực trong doanh nghiệp vẫn chưa sẵn sàng cho chuyển đổi xanh.
Đặc biệt, đội ngũ cán bộ kỹ thuật ở dưới các nhà máy chưa được tiếp cận, chưa quen với các công nghệ hoặc lộ trình, cách thức để thực hiện quá trình xanh này. Điều này đòi hỏi phải tập huấn, đào tạo liên tục để chuẩn bị cho quá trình xanh hóa.
Theo bà Phan Thị Thanh Xuân, Nhà nước cần ban hành được những chính sách phù hợp để khuyến khích các doanh nghiệp chuyển đổi, đồng thời xây dựng được một hệ tiêu chuẩn, quy chuẩn đồng nhất. Bởi trong quá trình chuyển đổi xanh hóa, rất nhiều yêu cầu được đặt ra và những yêu cầu này sẽ gây ra chi phí tuân thủ rất lớn cho các doanh nghiệp. Vì thế, khi có một giải pháp tổng thể, chúng ta sẽ nhìn nhận được một cách toàn diện và xây dựng được một hệ điều kiện cũng như tiêu chuẩn một cách rõ ràng, giúp cho các doanh nghiệp có cơ sở để nắm bắt và thực thi một các chuẩn xác nhất.
Mặt khác, Nhà nước cần có cơ chế hỗ trợ đặc thù, chính sách cụ thể về quỹ đất, khuyến khích phát triển công nghiệp hỗ trợ, quỹ tài chính về môi trường... để doanh nghiệp theo hướng xanh có thể tiếp cận quỹ, giúp doanh nghiệp có nguồn tài chính thuận lợi, giá hợp lý hơn, đẩy nhanh quá trình đầu tư và nâng cao sức cạnh tranh trên thị trường quốc tế...
Nội dung bài viết được đăng tải trên Tạp chí Kinh tế Việt Nam số 45-2024 phát hành ngày 04/11/2024. Kính mời Quý độc giả tìm đọc tại đây:
https://postenp.phaha.vn/chi-tiet-toa-soan/tap-chi-kinh-te-viet-nam