Tại báo cáo 229/BC-BTC, Bộ Tài chính cho biết tính đến hết tháng 5 năm 2025, tổng số dự án FDI còn hiệu lực trên toàn quốc đạt 43.346, với tổng vốn đăng ký hơn 517 tỷ USD. Trong đó, vốn thực hiện lũy kế đạt hơn 331 tỷ USD, tương đương 64,1% tổng vốn đăng ký.
Các nhà đầu tư nước ngoài đã đầu tư vào 19/21 ngành trong hệ thống phân ngành kinh tế quốc dân. Trong đó, ngành công nghiệp chế biến, chế tạo chiếm tỷ trọng cao nhất với hơn 316,6 tỷ USD (chiếm 61,2%). Tiếp theo là các ngành kinh doanh bất động sản với gần 78,2 tỷ USD (chiếm 15,1%); sản xuất, phân phối điện với trên 42,1 tỷ USD (chiếm 8,1%).
Hiện có 151 quốc gia và vùng lãnh thổ có dự án đầu tư còn hiệu lực tại Việt Nam. Trong đó, đứng đầu là Hàn Quốc với tổng vốn đăng ký hơn 93,7 tỷ USD (chiếm 18,1%). Singapore đứng thứ hai với gần 86,2 tỷ USD (chiếm 16,7%). Tiếp theo lần lượt là Nhật Bản, Đài Loan, Hồng Kông (Trung Quốc).

FDI có mặt ở tất cả 63 tỉnh, thành phố trong cả nước, trong đó thành phố Hồ Chí Minh là địa phương dẫn đầu trong thu hút FDI với hơn 59,7 tỷ USD (chiếm 11,5%); tiếp theo là thành phố Hà Nội với gần 45,3 tỷ USD (chiếm 8,8%); Bình Dương với gần 42,8 tỷ USD (chiếm 8,3%).
Theo kết quả điều tra của Cục Thống kê, khu vực doanh nghiệp FDI thu hút 5,1 triệu lao động, chiếm gần 10% trong tổng lực lượng lao động (trên 54 triệu lao động), chiếm 20% trong tổng lao động làm công ăn lương (25,3 triệu người) ở Việt Nam. Mức lương trong khu vực FDI cao hơn so với các khu vực khác, góp phần nâng cao thu nhập và chất lượng sống cho người lao động.
Đồng thời, các doanh nghiệp FDI đã mang theo công nghệ hiện đại, góp phần đổi mới công nghệ, nâng cao năng lực sản xuất trong nước, đặc biệt trong các lĩnh vực như dầu khí, điện tử, viễn thông, xây dựng. FDI cũng tạo động lực để doanh nghiệp trong nước cải tiến công nghệ, tăng năng suất và tham gia chuỗi giá trị toàn cầu. Một số dự án FDI đã đóng vai trò tích cực trong việc lan tỏa mô hình phát triển bền vững, nâng cao nhận thức về kinh tế tuần hoàn và xây dựng khu công nghiệp sinh thái.

Tuy nhiên, Bộ Tài chính chỉ ra một thực trạng đáng chú ý là nhiều doanh nghiệp FDI, dù có tổng vốn đầu tư đăng ký hàng tỷ USD, nhưng phần vốn góp thực tế từ chủ sở hữu lại rất thấp. Các dự án này chủ yếu dựa vào vốn vay để triển khai hoạt động đầu tư, làm gia tăng chi phí tài chính và khấu hao, từ đó dẫn đến hiệu quả kinh doanh thấp. Theo các chuyên gia, đây chính là lỗ hổng để FDI thực hiện chuyển giá, trốn thuế.
Một số hạn chế trong thu hút, sử dụng FDI chậm được khắc phục: (i) nhiều doanh nghiệp FDI sử dụng vốn chủ sở hữu thấp, dự án quy mô tỷ USD song vốn góp của nhà đầu tư nhỏ, kinh doanh chủ yếu dựa vào vốn vay để tăng chi phí, khấu hao,... khiến cho hiệu quả kinh doanh thấp; (ii) có hiện tượng đầu tư "chui", đầu tư "núp bóng" ở một số địa phương gây khó khăn cho công tác quản lý, giám sát của cơ quan nhà nước; (iii) một số doanh nghiệp FDI vi phạm pháp luật bảo vệ môi trường; sử dụng lao động nước ngoài trái phép, ảnh hưởng an ninh trật tự; sử dụng lãng phí tài nguyên, đất đai…
(Báo cáo của Bộ Tài chính)
Cơ cấu đầu tư FDI trong thời gian qua cũng cho thấy sự mất cân đối nhất định. Đầu tư vẫn tập trung chủ yếu tại một số địa phương có điều kiện hạ tầng thuận lợi như TP. Hồ Chí Minh, Hà Nội, Bình Dương, trong khi nhiều khu vực khác, nhất là các vùng miền núi, đồng bằng sông Cửu Long hay Tây Nguyên, vẫn còn vắng bóng các dự án FDI lớn. Ở góc độ ngành nghề, vốn đầu tư vẫn chủ yếu dồn vào lĩnh vực công nghiệp chế biến, chế tạo, bất động sản và sản xuất, phân phối điện. Việc phân bổ không đồng đều giữa các vùng, miền và ngành nghề dẫn đến nguy cơ phát triển thiếu bền vững, tăng gánh nặng cho hạ tầng ở các địa phương có mật độ đầu tư cao, trong khi chưa phát huy hết tiềm năng ở những vùng còn nhiều dư địa.
Trong khi đó, liên kết giữa khu vực FDI và khu vực doanh nghiệp trong nước vẫn còn yếu. Mặc dù có không ít doanh nghiệp FDI đầu tư bài bản, chuyển giao công nghệ và đào tạo nhân lực, phần lớn các doanh nghiệp vẫn chỉ thực hiện một số khâu trong chuỗi giá trị, sử dụng nhiều lao động giản đơn và nhập khẩu phần lớn nguyên vật liệu. Điều này khiến khả năng lan tỏa về công nghệ, quản trị và giá trị gia tăng cho doanh nghiệp trong nước còn hạn chế. Tỷ lệ nội địa hóa trong nhiều ngành vẫn thấp, dù Việt Nam đã có những chính sách thúc đẩy phát triển công nghiệp hỗ trợ trong nhiều năm.
Bộ Tài chính đánh giá đầu tư FDI của Hoa Kỳ và EU vào Việt Nam còn ít so với vốn FDI của Hoa Kỳ và EU trên thế giới và vào các nước ASEAN.
Thực trạng này phản ánh một số nguyên nhân đã tồn tại lâu dài. Ngoài yếu tố cạnh tranh quốc tế ngày càng gay gắt, việc thiếu quỹ đất công nghiệp có sẵn hạ tầng tốt, chi phí logistics cao, chất lượng lao động chưa đồng đều và năng lực thích ứng của doanh nghiệp trong nước còn yếu là những rào cản lớn đối với việc thu hút và sử dụng FDI hiệu quả.
Bộ Tài chính cho biết trong thời gian tới, chính sách thu hút FDI sẽ được điều chỉnh theo hướng đề cao chất lượng, hiệu quả và tính bền vững. Những chính sách mới không chỉ nhằm cải thiện môi trường đầu tư thông qua tinh giản thủ tục hành chính và minh bạch hóa pháp lý, mà còn tập trung vào các yếu tố như hiệu quả chuyển giao công nghệ, giá trị gia tăng trong nước và liên kết chuỗi cung ứng. Thay vì chạy theo số lượng dự án và tổng vốn đăng ký, Việt Nam đang từng bước hướng tới lựa chọn nhà đầu tư có năng lực thực chất, có cam kết rõ ràng về sử dụng công nghệ hiện đại, bảo vệ môi trường và đóng góp cho phát triển lâu dài.

Bên cạnh đó, việc phát triển hệ thống hạ tầng đồng bộ, nâng cao chất lượng nguồn nhân lực và tăng cường năng lực cạnh tranh của doanh nghiệp trong nước cũng được coi là nền tảng quan trọng để thu hút FDI thế hệ mới. Việc xác định rõ các lĩnh vực ưu tiên như công nghệ cao, năng lượng tái tạo, công nghiệp bán dẫn, trí tuệ nhân tạo hay tài chính số sẽ giúp Việt Nam định vị lại vai trò trong chuỗi giá trị toàn cầu. Song song với đó, các chính sách xúc tiến đầu tư sẽ chuyển từ tiếp cận đại trà sang có mục tiêu, có chọn lọc, hướng đến các tập đoàn lớn, có khả năng lan tỏa công nghệ và quản trị vào khu vực kinh tế nội địa.