Thị trường tiêu thụ trầm lắng sau Tết đã được dự báo trước, thực tế nông dân chỉ bán được lợn hơi tại cửa chuồng với giá từ 52.000-55.000 đồng/kg. Trong khi đó, giá thành chăn nuôi được tính toán ở mức 49.000-51.000 đồng/kg lợn hơi, nên nông dân đạt lợi nhuận thấp.
Tuy nhiên, những ngày sau Tết giá lợn hơi xuất chuồng tại nước ta bỗng nhiên bật tăng – đây được nhận định là điều bất ngờ, bởi nhu cầu tiêu dùng thịt lợn sau Tết thường giảm so với những ngày Tết Nguyên đán.
GIÁ LỢN HƠI ĐANG HỒI PHỤC
Ngày 21/2/2024, Công ty Chăn nuôi C.P Việt Nam thông báo giá lợn hơi xuất bán tại cửa các trang trại ở mức 59.000 - 60.000 đồng/kg. Một số công ty chăn nuôi dự đoán giá heo sẽ tiếp tục tăng trong vài ngày tới, nhưng diễn biến hiện tại vẫn rất khó lường, do nhu cầu tiêu thụ cũng chưa khởi sắc nên khả năng tăng cao vẫn là ẩn số.
Lợn của nông dân chăn nuôi hiện được thương lái thu mua với giá thấp hơn các doanh nghiệp lớn, nhưng cũng đang trên đà tăng. Theo các hệ thống khảo sát giá của Bộ Nông nghiệp và Phát triển nông thôn, giá lợn hơi xuất chuồng trên cả nước ngày 21/2/2024 bình quân ở mức 55.700 đồng/kg.
Trong đó, tại Thái Nguyên và Hà Nội, giá lợn hơi ở mức 57.000 đồng; các địa phương khác dao động trong khoảng 57.000 - 58.000 đồng/kg. Tại Quảng Ngãi và Đắk Lắk, lợn của nông dân đang được thương lái thu mua chung mức 55.000 đồng/kg sau khi tăng lần lượt 1.000 đồng và 2.000 đồng/kg so với ngày 20/2. Thương lái tại Hà Tĩnh giao dịch lợn hơi ở mức 56.000 đồng/kg, tăng 1.000 đồng so với ngày 20/2. Ở khu vực phía nam, giá lợn hơi tăng cao nhất 3.000 đồng/kg, dao động trong khoảng 53.000 - 57.000 đồng/kg.
Đối với gia cầm, hiện giá bán đang ổn định, không ghi nhận sự thay đổi so với tuần trước. Cụ thể, giá gà xuất bán tại cửa chuồng của nông dân: gà Mía khoảng 73.000 đồng/kg, gà Minh Dư khoảng 50.000 - 57.000 đồng/kg, gà Ri khoảng 43.000 - 50.000 đồng/kg và gà Nòi là 74.000 đồng/kg. Giá vịt hôm nay vẫn duy trì biểu đồ đi ngang, dao động trong khoảng 33.000 - 42.000 đồng/kg. Cần Thơ là thành phố có giá vịt cao nhất cả nước, trong khi đó các địa phương phía Bắc như Hà Nội, Phú Thọ và Bắc Trung Bộ như Nghệ An là thấp nhất.
HẠT TIÊU TĂNG GIÁ, NÔNG DÂN KHÔNG VỘI BÁN
Theo các hệ thống khảo sát giá, giá tiêu tại thị trường trong nước ngày 21/2/2024 tăng đồng loạt 2.000 đồng/kg so với ngày 20/2, hiện dao động trong khoảng từ 86.500 - 89.500 đồng/kg. Cụ thể, giá tiêu hôm nay tại Đồng Nai tăng 2.000 đồng/kg, lên mức 87.000 đồng/kg. Giá tiêu tại Bà Rịa - Vũng Tàu tăng 2.000 đồng/kg, lên mức 89.000 đồng/kg. Trong khi đó, giá tiêu tại Bình Phước tăng 1.500 đồng/kg, lên mức 89.500 đồng/kg - mức cao nhất cả nước.
"Giá hồ tiêu năm nay đang tăng trở lại, song người dân không bị áp lực bán sớm như những năm trước bởi giá cà phê, sầu riêng đều tăng cao, nhiều hộ có thu nhập ổn định".
Ông Hoàng Phước Bính - Phó Chủ tịch Thường trực Hiệp hội Hồ tiêu Chư Sê, Gia Lai.
Vụ thu hoạch rộ hồ tiêu đang diễn ra. Với đà tăng hiện tại nông dân các địa phương phấn khởi và nhiều kỳ vọng vào vụ mùa năm nay.
Theo Sở Nông nghiệp và Phát triển Nông thôn tỉnh Gia Lai, đến cuối năm 2023, toàn tỉnh có 8.798 ha hồ tiêu, sản lượng đạt khoảng 28.580 tấn. Vụ thu hoạch 2024, giá hồ tiêu đang phục hồi và tăng trở lại đem đến nhiều kỳ vọng cho người trồng.
Trên thị trường hồ tiêu thế giới, theo cập nhật từ Hiệp hội Hồ tiêu Quốc tế (IPC) vào ngày 20/2, giá tiêu đen Lampung (Indonesia) giảm 0,18% so với ngày 19/2.
Song song đó, giá tiêu đen Brazil ASTA 570 và tiêu đen Kuching (Malaysia) ASTA vẫn duy trì ổn định. Cụ thể: Tiêu đen Lampung (Indonesia) hiện có giá bán 3.905 USD/tấn; Tiêu đen Brazil ASTA 570 giá bán 4.050 USD/tấn; Tiêu đen Kuching (Malaysia) ASTA giá bán 4.900 USD/tấn.
Cùng thời điểm khảo sát, giá tiêu trắng Muntok giảm 0,18% so với phiên hôm trước, trong khi giá tiêu trắng Malaysia ASTA không có điều chỉnh mới. Cụ thể ngày 20/2/2024, tiêu trắng Muntok có giá bán 6.157 USD/tấn; Tiêu trắng Malaysia ASTA giá bán 7.300 USD/tấn.
Theo số liệu tính toán từ Cơ quan Hải quan Trung Quốc, nhập khẩu hạt tiêu của nước này năm 2023 đạt 9,18 nghìn tấn, trị giá 39,75 triệu USD, tăng 4,5% về lượng, nhưng giảm 6,1% về trị giá so với năm 2022. Nhu cầu nhập khẩu hạt tiêu hàng năm của Trung Quốc khoảng 65.000 - 70.000 tấn. Thông thường sau Tết nguyên đán, Việt Nam vào kỳ thu rộ cũng là lúc thương nhân Trung Quốc tăng cường tìm kiếm nguồn hàng.
Năm 2024, nhu cầu nhập khẩu hạt tiêu của Trung Quốc được dự báo sẽ tăng so với năm 2023. Đây là cơ hội cho các nhà xuất khẩu hạt tiêu trên thế giới. Hiện hạt tiêu chủ yếu được dùng làm gia vị và trong công nghiệp thực phẩm, là sản phẩm được người tiêu dùng Trung Quốc ưa chuộng và được sử dụng rộng rãi tại nhiều địa phương, gồm: Tứ Xuyên, Hồ Nam, Hồ Bắc và một số tỉnh khu vực phía Bắc Trung Quốc. Đặc biệt, du lịch nội địa có xu hướng phục hồi mạnh cũng kéo theo nhu cầu tiêu dùng, sử dụng dịch vụ ăn uống gia tăng.
GIÁ CAO SU TĂNG NHẸ
Đối với mặt mặt hàng cao su, tại Sở giao dịch hàng hóa Tokyo (TOCOM), giá cao su kỳ hạn giao tháng 2/2024 đạt mức 305 yen/kg, tăng 1,97% (tương đương 6 yen/kg) tại thời điểm khảo sát vào lúc 6h00 (giờ Việt Nam). Trên Sàn giao dịch hàng hóa tương lai Thượng Hải (SHFE), giá cao su RSS3 giao kỳ hạn tháng 3/2024 được điều chỉnh lên mức 13.485 nhân dân tệ/tấn, tăng 0,22% (tương đương 30 nhân dân tệ) so với giao dịch.
Ghi nhận từ báo cáo mới nhất của Cục Xuất Nhập khẩu (Bộ Công Thương), trong năm 2023, Trung Quốc chủ yếu nhập khẩu cao su tự nhiên và cao su tổng hợp, lượng nhập khẩu các chủng loại này đều tăng so với năm 2022. Trong đó, cao su tự nhiên chiếm 33,92% tổng lượng cao su nhập khẩu của Trung Quốc; Cao su tổng hợp chiếm 64,83%; Phần còn lại là cao su tái sinh và cao su hỗn hợp.
Trong năm 2023, Trung Quốc nhập khẩu trên 2,73 triệu tấn cao su tự nhiên (HS 4001), với trị giá 3,57 tỷ USD, tăng 3,6% về lượng, nhưng giảm 11,3% về trị giá so với năm 2022, chủ yếu nhập khẩu từ các thị trường như: Thái Lan, Bờ Biển Ngà, Malaysia, Việt Nam và Myanmar.
Trong năm 2023, Việt Nam là thị trường cung cấp cao su tự nhiên lớn thứ 4 cho Trung Quốc với 239,36 nghìn tấn, trị giá 256,75 triệu USD, giảm 10,7% về lượng và giảm 24,4% về trị giá so với năm 2022. Thị phần cao su tự nhiên của Việt Nam chiếm 8,76% trong tổng lượng cao su tự nhiên nhập khẩu của Trung Quốc, thấp hơn so với mức 10,16% của năm 2022.