Chương trình Phát triển Liên hợp quốc (UNDP) và Viện Năng lượng vừa tổ chức hội thảo đánh giá toàn diện về sản xuất hydro xanh từ các nguồn năng lượng mặt trời, năng lượng gió và tiềm năng sử dụng tại Việt Nam, trong đó trọng tâm đánh giá cho vùng duyên hải Nam Trung Bộ và Tây Nam Bộ.
CẦN LỘ TRÌNH NGHIÊN CỨU, XÂY DỰNG CHÍNH SÁCH
Ông Patrick Haverman, Phó Đại diện thường trú Chương trình Phát triển Liên hợp quốc (UNDP) tại Việt Nam, cho biết với mức tăng trưởng kinh tế nhanh chóng, Việt Nam cũng tăng nhu cầu tiêu thụ năng lượng với tốc độ khoảng 10 - 12% hàng năm. Việt Nam đã bắt đầu thực hiện một lộ trình đầy tham vọng để đáp ứng nhu cầu năng lượng ngày càng tăng của quốc gia một cách bền vững, trong đó năng lượng tái tạo đáp ứng 47% nhu cầu điện năng vào năm 2050.
Theo ông Patrick Haverman, Hydro xanh đã nổi lên như một giải pháp nổi bật trong tiến trình toàn cầu theo đuổi một tương lai xanh hơn. Các ứng dụng của hydro xanh rất rộng lớn, từ giao thông vận tải đến khử carbon trong các ngành công nghiệp như thép, hóa chất, và trộn nó vào mạng lưới khí đốt tự nhiên hiện có để sưởi ấm trong các tòa nhà.
"Các dự án song phương cho thấy việc sử dụng hydro xanh có thể áp dụng cho cả các dự án carbon cao để giảm thiểu chi phí, tăng cường hiệu quả. UNDP sẵn sàng đồng hành cùng Việt Nam trên lộ trình này để đạt được mục tiêu phát thải ròng bằng không”.
Ông Patrick Haverman, Phó Đại diện thường trú UNDP tai Việt Nam.
Nhóm Đối tác Quốc tế, bao gồm G7, EU, Đan Mạch và Na Uy, trong Đối tác Chuyển đổi Năng lượng Công bằng (JETP) và Việt Nam, đã xác định sản xuất hydro xanh là ưu tiên chính trong Tuyên bố Chính trị của JETP.
Tuy nhiên, sản xuất và sử dụng hydro xanh là một lĩnh vực mới đối với Việt Nam. Mặc dù Việt Nam đã chứng kiến việc chuẩn bị một số dự án đầu tư hydro xanh, nhưng vẫn cần có khung pháp lý toàn diện và nghiên cứu và phát triển công nghệ nhiên liệu hydro xanh cũng như mức tiêu thụ tiềm năng trong các ngành công nghiệp khác nhau.
Để giải quyết vấn đề tiềm năng sản xuất hydro từ quá trình điện phân nước tại Việt Nam, ông Patrick Haverman, cho rằng phải tiến hành nhiều bước.
Đầu tiên là nghiên cứu và phát triển là rất quan trọng để xác định tiềm năng các trường hợp sử dụng tiềm năng, tiềm năng khử carbon, nâng cao hiệu quả, và giảm chi phí các công nghệ sản xuất hydro xanh, đặc biệt là sự cần thiết sử dụng hydro xanh và amoniac xanh trong các lĩnh vực khác như giao thông vận tải và các ngành công nghiệp như thép và hóa chất ở Việt Nam.
Tiếp đến, phát triển của hydro xanh sẽ đòi hỏi một khung chính sách và quy định rõ ràng với những nỗ lực phối hợp giữa chính phủ, doanh nghiệp, học viện và xã hội dân sự để thực hiện quá trình chuyển đổi từ nguyên liệu thô có nguồn gốc từ nhiên liệu hóa thạch.
Cuối cùng, điều quan trọng là phát triển cơ sở hạ tầng cần thiết để sản xuất, lưu trữ và phân phối hydro xanh một cách an toàn tại Việt Nam. Việt Nam đang nhanh chóng mở rộng công suất năng lượng mặt trời và năng lượng gió.
NƠI NÀO THUẬN LỢI CHO PHÁT TRIỂN SẢN XUẤT HYDRO XANH?
Ông Nguyễn Thế Thắng, đại diện Viện năng lượng, Bộ Công Thương nhận định việc sử dụng hydro xanh được đánh giá là giải pháp có vị trí ngày càng quan trọng trong lộ trình chuyển dịch năng lượng do những đặc tính ưu việt về giảm phát thải các khí ô nhiễm và CO2.
Nhằm giúp các nhà đầu tư, chuyên gia nắm được những thực tế của Việt Nam từ đó đưa ra những khuyến nghị, Viện Năng lượng đã tiến hành Dự án đánh giá tổng thể hydro xanh từ năng lượng mặt trời và năng lượng gió của Việt Nam.
Báo cáo đánh giá đã đưa ra ba kịch bản sản xuất hydro xanh từ các nguồn năng lượng tái tạo. Báo cáo đã đánh giá năng lực sản xuất tiềm năng và chi phí bình quân cho hydro quy dẫn (LCOH). Báo cáo cũng đưa ra phân tích kinh tế và thống kê dựa trên dữ liệu mới nhất về dự báo điện trong nước và điện tái tạo, ước tính nhu cầu hydro và amoniac xanh tại thời điểm hiện tại và tương lai, cũng như các cuộc thảo luận về chính sách quốc gia và khung pháp lý cần thiết để phát triển hydro xanh.
"Ước tính ngành thép sẽ cần 9,5 triệu tấn hydro xanh vào 2050 và với ngành xi măng là 1,8 triệu tấn. Đối với ngành lọc hóa dầu nhu cầu đến năm 2050 là 179.000 tấn hydro xanh. Sản xuất điện cũng có nhu cầu là hơn 19,5 triệu tấn vào 2050".
Ông Nguyễn Văn Trường, Viện Năng lượng, đại diện cho nhóm nghiên cứu tổng thể về hydro xanh.
Ông Nguyễn Văn Trường, chuyên gia đại diện cho nhóm nghiên cứu dự án cho biết, nhu cầu sử dụng hydro xanh cho các ngành sản xuất của Việt Nam sẽ là một con số lớn.
Cũng theo tính toán, tổng lượng giảm phát thải CO2 khi sử dụng hydro xanh ở các kịch bản, năm 2030 sẽ giảm khoảng 3,9 triệu tấn CO2 tương ứng 0,6% so với phát thải cơ sở. Năm 2050 giảm khoảng 363,8 triệu tấn CO2 tương ứng 30,1% so với phát thải cơ sở.
Từ kết quả nghiên cứu, nhóm chuyên gia nghiên cứu dự án khuyến nghị sản xuất hydro xanh tốt nhất ở những địa điểm thuận lợi, có nguồn điện tái tạo tại chỗ. Nguồn hydro xanh sản xuất ra có thể được cung cấp trực tiếp cho hộ tiêu dùng công nghiệp địa phương để hạn chế chi phí lưu giữ và vận chuyển.
Nam Trung Bộ và Tây Nam Bộ là vùng được đánh có nhiều tiềm năng nhất để sản xuất loại năng lượng này, bởi đây là hai vùng có thuận lợi về đất đai, nguồn nước và thuận tiện khi xuất nhập khẩu hydro xanh. Hai khu vực trên có tiềm năng lớn về điện mặt trời và điện gió, đặc biệt các tỉnh Nam Trung Bộ và Tây Nam Bộ.
“Ngoài ra, hai vùng này là nơi tập trung các cơ sở sản xuất công nghiệp trọng điểm như lọc hóa dầu, sản xuất điện, hóa chất, phân bón… Đây là nơi tiêu thụ sản phẩm hydro xanh tiềm năng. Do đó, có sự thuận lợi trong việc sản xuất, vận chuyển và sử dụng hydro xanh nhờ ưu điểm về khoảng cách, cơ sở hạ tầng vận chuyển, phân phối, lưu chứa”, ông Trường phân tích.
Viện Năng lượng lưu ý cần phân bổ nguồn lực thực hiện hợp lý ở từng giai đoạn, như cần nhận biết thứ tự ưu tiên của các ngành cần phải thực hiện chuyển đổi nhiên liệu sang hydro xanh; các ngành có phát thải lớn trong cơ cấu kinh tế của Việt Nam và khó có khả năng áp dụng các giải pháp giảm thiểu như giao thông, thép, hóa chất, xi măng, sản xuất vật liệu xây dựng, lọc hóa dầu…
"Ngay trong thời gian tới, ưu tiên ở các lĩnh vực có điều kiện thuận lợi như dầu khí, hóa chất, phân đạm. Đây là những lĩnh vực có thể giảm phát thải khí nhà kính ngay với cơ sở hạ tầng hiện có, chỉ cần lắp đặt thêm hệ thống thu giữ CO2 để chuyển đổi mà không cần nhiều chi phí đầu tư công nghệ mới và thiết bị chuyển đổi đắt đỏ”, ông Trường gợi ý.