Ngày 25/9, Phó Thủ tướng Hồ Đức Phớc ký Quyết định 1019/QĐ-TTg phê duyệt Chiến lược phát triển đến năm 2030, tầm nhìn đến năm 2035; Kế hoạch sản xuất kinh doanh và kế hoạch đầu tư phát triển đến năm 2025 của Tập đoàn Bưu chính Viễn thông Việt Nam (VNPT).
TIÊN PHONG NGHIÊN CỨU CÔNG NGHỆ 6G, CUNG CẤP HỆ SINH THÁI SỐ TRONG MỌI LĨNH VỰC
Chiến lược xác định mục tiêu tổng quát nhằm tiếp tục xây dựng và phát triển VNPT thành tập đoàn kinh tế nhà nước mạnh, năng động, hiệu quả, hiện đại có năng lực cạnh tranh ở trong nước và quốc tế, thực hiện tốt nhiệm vụ công ích, góp phần thúc đẩy phát triển kinh tế - xã hội, quốc phòng, an ninh.
VNPT trở thành tập đoàn công nghệ lấy hạ tầng số, công nghệ số và dịch vụ số làm chủ đạo, sở hữu và khai thác nền tảng, hạ tầng trụ cột của hạ tầng số quốc gia, là nhà sáng tạo tiên phong nghiên cứu làm chủ công nghệ số và cung cấp hệ sinh thái số trong mọi lĩnh vực đời sống kinh tế xã hội, dựa trên thế mạnh về các nền tảng số, công nghệ lõi và an toàn an ninh mạng.
Tập đoàn cũng sẽ phát triển cơ sở hạ tầng viễn thông 5G trên cơ sở tận dụng mạng viễn thông di động 4G, tăng cường chia sẻ hạ tầng viễn thông với các doanh nghiệp viễn thông khác. Tiên phong nghiên cứu công nghệ 6G góp phần để Việt Nam có thể là một trong các quốc gia sớm triển khai công nghệ 6G trên thế giới.
VNPT sẽ phát triển các nền tảng cung cấp các công nghệ số lõi (IoT, trí tuệ nhân tạo, dữ liệu lớn, Blockchain, an ninh mạng...) như một dịch vụ thiết yếu, đóng vai trò là hạ tầng mềm quan trọng cung cấp các sản phẩm dịch vụ.
Nghiên cứu, ứng dụng các công nghệ mới trong triển khai mạng truy nhập Internet băng rộng. Nghiên cứu, đầu tư, ứng dụng các công nghệ mạng mở (open network), Native Cloud/Egde Cloud, Network Automation/ Network Autonomous, các công nghệ truy cập mạng vô tuyến…
Đến năm 2025, VNPT phát triển trở thành tập đoàn kinh tế chủ lực quốc gia; chuyển đổi thành công từ doanh nghiệp viễn thông truyền thống sang doanh nghiệp công nghệ, làm chủ một số nền tảng quan trọng dẫn dắt chuyển đổi số quốc gia.
Năm 2030, VNPT trở thành doanh nghiệp công nghệ số thông minh, năng động, hiệu quả, có vai trò quan trọng trong bản đồ số quốc gia của Việt Nam, đồng thời thâm nhập thành công thị trường khu vực, quốc tế.
Tiến tới năm 2035, VNPT sẽ là nền tảng của mọi khách hàng, sở hữu hệ sinh thái của mọi sản phẩm dịch vụ; là nhà cung cấp mạng truyền dẫn chất lượng kết nối cao, thông minh, tin cậy đồng bộ với các nền tảng số hàng đầu của Việt Nam và khu vực.
TỔNG DOANH THU ĐẠT 287.933 TỶ ĐỒNG
Chiến lược cũng đặt ra chỉ tiêu kế hoạch sản xuất kinh doanh và đầu tư phát triển 5 năm giai đoạn đến năm 2025, theo đó đối với VNPT, tổng doanh thu là 287.933 tỷ đồng; tổng lợi nhuận là 30.873 tỷ đồng; tổng giá trị nộp ngân sách là 26.064 tỷ đồng.
Đối với Công ty mẹ - VNPT, tổng doanh thu là 207.140 tỷ đồng; tổng lợi nhuận là 22.147 tỷ đồng; tổng giá trị nộp ngân sách là 18.504 tỷ đồng; tổng vốn đầu tư là 40.824 tỷ đồng.
Trong Kế hoạch 5 năm giai đoạn đến năm 2025, nhiệm vụ của VNPT là nâng cao hiệu quả ứng dụng khoa học công nghệ của cuộc cách mạng công nghiệp lần thứ 4 vào các hoạt động sản xuất kinh doanh; phát triển hoạt động sản xuất kinh doanh sản phẩm dịch vụ viễn thông, công nghệ thông tin, đóng góp tích cực và quan trọng vào chương trình chuyển đổi số quốc gia của Chính phủ theo các lĩnh vực phát triển cơ bản sau: hạ tầng số; Chính phủ số; kinh tế số; xã hội số.
Trong đó, về hạ tầng số phấn đấu đến năm 2025, mạng băng rộng cố định FTTx đạt 10 triệu thuê bao, cung cấp tốc độ trung bình 200Mb/s cho người dùng, tốc độ trung bình 1Gb/s cho tổ chức, doanh nghiệp; vùng phủ 4G/5G sẽ đạt 98% dân cư, tốc độ tải xuống trung bình 40Mb/s đối với mạng 4G, 100 Mb/s đối với mạng 5G.
Phát triển hệ sinh thái dịch vụ điện toán đám mây của VNPT trở thành thương hiệu mạnh cho các dịch vụ điện toán đám mây trong nước và khu vực, đến năm 2025 là nhà cung cấp dịch vụ điện toán đám mây hàng đầu cho khối Chính phủ/chính quyền; trở thành nhà cung cấp đa nền tảng hàng đầu Việt Nam…
Về Chính phủ số, VNPT tham gia thúc đẩy, hỗ trợ Chính phủ, bộ ngành địa phương phát triển Chính phủ điện tử hướng đến Chính phủ số và nền kinh tế số. Triển khai chuyển đổi số, xây dựng đô thị thông minh toàn diện cho các địa phương trong cả nước.
Triển khai hệ sinh thái dịch vụ chính quyền số đáp ứng nhu cầu Chính phủ số 4 cấp từ trung ương tới địa phương tạo đòn bẩy phát triển kinh tế, an sinh xã hội.
Đối với kinh tế số, thực hiện chuyển đổi số doanh nghiệp thông qua cung ứng chuỗi sản phẩm dịch vụ chuyển đổi số theo mô hình XaaS (Anything as a service) đóng góp quan trọng vào mục tiêu hình thành các doanh nghiệp công nghệ số của Việt Nam. Phát triển hệ sinh thái sản phẩm dịch vụ, doanh nghiệp số trọng tâm là các sản phẩm dịch vụ quản trị doanh nghiệp, gia tăng trải nghiệm khách hàng và các giải pháp công nghệ thông tin chuyên ngành giúp chuyển đổi mô hình kinh doanh của doanh nghiệp trên môi trường số.
Đẩy mạnh phát triển các nền tảng số với mô hình kinh doanh hướng dữ liệu giúp chuyển đổi số mạnh mẽ việc tổ chức kinh doanh của VNPT đối với khách hàng, tích tụ tài nguyên và ứng dụng công nghệ gia tăng hiệu quả kinh tế. Triển khai mô hình nền tảng VNPT (VNPT as a platform) là nền tảng số kết nối sản phẩm dịch vụ số của VNPT và các nhà cung cấp dịch vụ số tới khách hàng tổ chức, doanh nghiệp theo mô hình tự động toàn trình.
Về xã hội số, Tăng cường kết nối và trải nghiệm số của người dân thông qua gia tăng tiêu dùng dữ liệu di động, gói gộp và hội tụ xuyên suốt trên tất cả các mảng kinh doanh cố định, di động và truyền hình trả tiền.
Thúc đẩy thương mại điện tử trong việc gia tăng tương tác trực tuyến của người dân, tăng tỷ lệ thanh toán không dùng tiền mặt và ứng dụng công nghệ 4.0 chuyển đổi mô hình cung cấp dịch vụ. Chú trọng phát triển các dịch vụ thiết yếu và liên kết hệ sinh thái dịch vụ của VNPT trong chuyển đổi số chính quyền, doanh nghiệp, y tế, giáo dục, nông nghiệp.
Để hoàn thành nhiệm vụ 5 năm, VNPT cần phát triển cơ sở hạ tầng viễn thông, công nghệ thông tin phục vụ số hóa; phát triển sản phẩm dịch vụ số thông minh; đổi mới mô hình tổ chức, mô hình kinh doanh và phát triển nâng cao chất lượng nguồn nhân lực; hiệu quả hoá vốn đầu tư và chi phí…