Sáng 1/8, S&P Global công bố báo cáo chỉ số nhà quản trị mua hàng (PMI) ngành sản xuất Việt Nam tháng 7/2023.
Trong đó, có 3 điểm nổi bật: Sản lượng, số lượng đơn đặt hàng mới và việc làm đều giảm chậm hơn; lượng hàng tồn kho tăng và chi phí đầu vào và giá bán hàng tiếp tục giảm.
Báo cáo của S&P Global nhận định, tháng đầu quý 3 của năm chứng kiến ngành sản xuất của Việt Nam vẫn nằm trong vùng suy giảm, nhưng đã có những dấu hiệu cho thấy sự ổn định. Sản lượng, số lượng đơn đặt hàng mới và việc làm giảm chậm hơn, trong khi niềm tin kinh doanh đã tăng.
Tuy nhiên, môi trường kinh doanh suy giảm dẫn đến hàng tồn kho sản phẩm chưa bán và hàng hóa đầu vào chưa sử dụng đã tăng trong tháng 7. Trong khi đó, giá cả tiếp tục giảm và thời gian giao hàng của nhà cung cấp được rút ngắn.
Chỉ số nhà quản trị mua hàng (PMI) ngành sản xuất Việt Nam đã tăng lên 48,7 điểm trong tháng 7, so với mức 46,2 điểm của tháng 6. Kết quả lần này cho thấy các điều kiện hoạt động đã suy giảm tháng thứ năm liên tiếp, mặc dù lần suy giảm này chỉ là nhẹ và là nhẹ nhất trong thời kỳ này.
Xu hướng của chỉ số toàn phần phù hợp với một số chỉ số con trong tháng 7, với tốc độ giảm sản lượng, số lượng đơn đặt hàng mới và việc làm đều là yếu nhất trong các kỳ giảm tương ứng kể từ tháng 3.
Cụ thể, số lượng đơn đặt hàng mới đã chỉ giảm nhẹ trong tháng 7 khi có các dấu hiệu cho thấy nhu cầu ổn định. Tuy nhiên, các nhà sản xuất cho biết nhu cầu nhìn chung vẫn yếu, đặc biệt là ở các thị trường xuất khẩu. Phản ánh tình trạng nhu cầu đặc biệt yếu kém ở thị trường quốc tế, số lượng đơn đặt hàng xuất khẩu mới đã giảm nhanh hơn nhiều so với tổng số lượng đơn đặt hàng mới. Một số công ty cho biết số lượng đơn đặt hàng mới từ khách hàng châu Âu giảm.
Với số lượng đơn đặt hàng mới tiếp tục giảm, các công ty tiếp tục giảm sản lượng trong tháng 7, mặc dù vấn đề khó khăn do thiếu điện như đã xảy ra trong tháng 6 đã không còn góp phần làm tốc độ suy giảm chậm hơn so với kỳ khảo sát trước.
Số lượng đơn đặt hàng mới giảm khiến lượng công việc tồn đọng tiếp tục giảm trong tháng 7, và tốc độ giảm tăng lên so với tháng 6. Trong khi đó, có những dấu hiệu cho thấy nhu cầu yếu đã góp phần làm tăng lượng hàng tồn kho ngoài dự kiến.
Hàng tồn kho thành phẩm tăng lần đầu trong ba tháng do những khó khăn trong khâu bán sản phẩm, trong khi tồn kho hàng hóa đầu vào tăng lần đầu tiên trong thời gian một năm tính đến thời điểm này khi sản lượng giảm. Tồn kho hàng mua đã tăng mặc dù hoạt động mua hàng giảm tháng thứ năm liên tiếp.
Các nhà sản xuất cũng giảm số lượng việc làm lần thứ năm liên tiếp, nhưng tốc độ giảm là nhẹ.
Tình trạng thiếu nhu cầu đầu vào là nhân tố chính giúp thời gian giao hàng của nhà cung cấp tiếp tục rút ngắn đáng kể, trong khi vẫn có những báo cáo cho biết mức độ gián đoạn trong khâu vận chuyển giảm bớt giúp đẩy nhanh việc giao hàng. Mặc dù ít đáng kể hơn so với tháng 6, mức độ rút ngắn thời gian giao hàng lần này vẫn nằm trong số mạnh nhất từng được ghi nhận.
Chi phí đầu vào giảm tháng thứ ba liên tiếp khi các nhà cung cấp sẵn sàng giảm giá trong bối cảnh nhu cầu yếu. Từ đó, các nhà sản xuất Việt Nam đã giảm giá bán hàng trong nỗ lực thúc đẩy nhu cầu, và mức giảm là lớn hơn so với chi phí đầu vào. Mức giảm giá mạnh hầu như ngang bằng với kỳ khảo sát trước.
Niềm tin kinh doanh đã tăng thành mức cao của 4 tháng trong tháng 7, nhưng vẫn tương đối thấp. Các công ty hy vọng rằng nhu cầu khách hàng khi phục hồi sẽ khiến sản lượng tăng trở lại, nhưng vẫn còn những lo ngại về những khó khăn hiện nay trong việc tìm kiếm đơn đặt hàng mới.
Bình luận về kết quả khảo sát, ông Andrew Harker, Giám đốc Kinh tế tại S&P Global Market Intelligence, cho rằng theo dữ liệu chỉ số PMI mới nhất, ngành sản xuất Việt Nam vẫn chịu áp lực trong tháng 7, khi các công ty tiếp tục khó kiếm được đơn đặt hàng mới và đã phải giảm sản lượng tương ứng.
Tuy nhiên, mặc dù sản lượng kỳ này giảm, các công ty vẫn còn tồn kho hàng hóa chưa bán được. Trong khi đó, giá cả tiếp tục giảm, và thời gian giao hàng của nhà cung cấp được rút ngắn khi năng lực sản xuất trong ngành chưa được dùng hết.
Một điểm tích cực hơn, theo ông Andrew Harker, có những dấu hiệu cho thấy nhu cầu có thể ổn định khi số lượng đơn đặt hàng mới giảm chậm nhất trong thời gian năm tháng. Các công ty sẽ hy vọng điều này có thể giúp số lượng đơn đặt hàng tăng trở lại trong những tháng tới.