Với 428/461 vị tán thành, 17 không đồng ý và 16 vị không biểu quyết, sáng 25/6 Quốc hội đã quyết định chủ trương đầu tư dự án Cảng hàng không quốc tế Long Thành tại huyện Long Thành, tỉnh Đồng Nai.
Mục tiêu đặt ra là xây dựng Cảng hàng không quốc tế Long Thành đạt cấp 4F theo phân cấp của Tổ chức hàng không dân dụng quốc tế (ICAO); là cảng hàng không quốc tế quan trọng của quốc gia, hướng tới trở thành một trong những trung tâm trung chuyển hàng không quốc tế của khu vực.
Các hạng mục của dự án được đầu tư xây dựng để đạt công suất 100 triệu hành khách/năm và 5 triệu tấn hàng hóa/năm, theo nghị quyết.
Được sử dụng một phần vốn ngân sách
Nghị quyết cũng nêu rõ tổng mức đầu tư: khái toán cho toàn bộ dự án là 336.630 tỷ đồng (tương đương 16,03 tỷ USD, áp dụng đơn giá của năm 2014), trong đó giai đoạn 1 là 114.450 tỷ đồng (tương đương 5,45 tỷ USD).
Dự án được sử dụng một phần vốn ngân sách nhà nước, vốn cổ phần hóa doanh nghiệp nhà nước của ngành hàng không, vốn hỗ trợ phát triển chính thức (ODA), vốn doanh nghiệp, vốn đầu tư theo hình thức đối tác công tư (PPP) và các loại vốn khác theo quy định của pháp luật.
Công nghệ áp dụng cho dự án là các công nghệ hiện đại trong việc xây dựng, quản lý và vận hành như các cảng hàng không quốc tế tiên tiến trên thế giới, bảo đảm năng lực khai thác đồng bộ theo tiêu chí an toàn, thuận tiện, chất lượng và hiệu quả.
Diện tích đất của dự án là 5.000 ha, trong đó, diện tích đất xây dựng kết cấu hạ tầng cảng hàng không là 2.750 ha, đất cho quốc phòng là 1.050 ha, đất dành cho hạng mục phụ trợ và công nghiệp hàng không, các công trình thương mại khác là 1.200 ha.
Lộ trình thực hiện sẽ gồm 3 giai đoạn. Giai đoạn 1: đầu tư xây dựng 1 đường cất hạ cánh và 1 nhà ga hành khách cùng các hạng mục phụ trợ đồng bộ với công suất 25 triệu hành khách/năm, 1,2 triệu tấn hàng hóa/năm; chậm nhất năm 2025 hoàn thành và đưa vào khai thác.
Giai đoạn 2: tiếp tục đầu tư xây dựng thêm 1 đường cất hạ cánh cấu hình mở và 1 nhà ga hành khách để đạt công suất 50 triệu hành khách/năm và 1,5 triệu tấn hàng hóa/năm.
Giai đoạn 3: hoàn thành các hạng mục của dự án để đạt công suất 100 triệu hành khách/năm và 5 triệu tấn hàng hóa/năm.
Quốc hội yêu cầu Chính phủ chỉ đạo lập báo cáo nghiên cứu khả thi đối với từng giai đoạn của dự án và báo cáo Quốc hội thông qua trước khi quyết định đầu tư.
Chính phủ còn được yêu cầu bảo đảm an toàn, đúng tiến độ, chất lượng, hiệu quả kinh tế - xã hội, quốc phòng, an ninh, hiệu quả đầu tư; chống thất thoát, lãng phí, tiêu cực trong quá trình đầu tư; có đánh giá tác động môi trường và giải pháp bảo vệ môi trường; huy động và cân đối các nguồn vốn đầu tư theo quy định của pháp luật; không gây tác động xấu đến nợ công.
Theo nghị quyết, hàng năm Chính phủ báo cáo Quốc hội về tình hình thực hiện dự án.
Làm rõ tỷ lệ vốn của các chủ thể tham gia
Báo cáo giải trình trước khi Quốc hội bấm nút, Ủy ban Thường vụ Quốc hội cho biết trong số 421 bản xin ý kiến có hồi âm thì 386 ý kiến đồng ý hoàn toàn với dự thảo nghị quyết, một ý kiến không đồng ý, 34 vị có ý kiến một số vấn đề cụ thể.
Theo đó, một số ý kiến đề nghị chỉ thu hồi diện tích đất xây dựng kết cấu hạ tầng Cảng hàng không quốc tế Long Thành là 2.750 ha, các công trình khác sẽ tiến hành theo từng dự án riêng.
Trên cơ sở cân nhắc toàn diện các vấn đề, Ủy ban Thường vụ Quốc hội đề nghị Quốc hội quyết định cho thu hồi toàn bộ diện tích 5.000 ha theo quy hoạch.
Ủy ban Thường vụ Quốc hội cũng giải trình ý kiến đề nghị ghi rõ tỷ lệ vốn của các chủ thể tham gia, làm rõ phần vốn ngân sách nhà nước của dự án.
Theo đó, đây là giai đoạn lập báo cáo nghiên cứu tiền khả thi dự án để Quốc hội quyết định chủ trương đầu tư, do vậy, dự thảo nghị quyết chỉ đề cập nguồn vốn cho dự án gồm những loại nào.
Còn tỷ lệ cụ thể của từng nguồn vốn sẽ được xác định rõ hơn ở bước lập báo cáo nghiên cứu khả thi đối với từng giai đoạn của dự án.
Góp ý dự thảo nghị quyết, có vị đại biểu đề nghị làm rõ thời gian bắt đầu, hoàn thành và đưa vào khai thác của giai đoạn 2 và giai đoạn 3 của dự án Cảng hàng không quốc tế Long Thành.
Ủy ban Thường vụ Quốc hội giải thích, đây là dự án kéo dài trong nhiều năm, vốn đầu tư lớn, do vậy, việc xem xét thời điểm đầu tư giai đoạn 2 và giai đoạn 3 của dự án phải dựa trên yêu cầu phát triển kinh tế-xã hội của đất nước.
Attention
The original article is written and published on VnEconomy in Vietnamese only. To read the full article, please use the Google Translate tool below to translate the content into your preferred language.
VnEconomy is not responsible for the translation.
VnEconomy is not responsible for the translation.
Google translate