June 27, 2025 | 16:15 GMT+7

Rào cản phi thuế quan đang kìm hãm “dòng chảy” thương mại ASEAN

Phương Hoa -

Không chỉ các doanh nghiệp tại Việt Nam, mà nhiều doanh nghiệp quốc tế cũng đang gặp không ít khó khăn khi xuất khẩu vào các thị trường ASEAN vì những rào cản phát sinh từ các biện pháp phi thuế quan (Non-Tariff Barriers), từ đó trở thành lực cản đối với dòng chảy thương mại và làm gia tăng chi phí cho doanh nghiệp....

Các chuyên gia tại Hội thảo “Gỡ bỏ rào cản phi thuế quan vì thịnh vượng chung ASEAN” được tổ chức vào ngày 27/6.
Các chuyên gia tại Hội thảo “Gỡ bỏ rào cản phi thuế quan vì thịnh vượng chung ASEAN” được tổ chức vào ngày 27/6.

Hiện nay, các rào cản phi thuế quan (Non-Tariff Barriers - NTBs) vẫn là một trong những trở ngại lớn, làm chậm dòng vốn quốc tế và cản trở lưu thông hàng hóa trong khu vực. Với hệ thống quy định, tiêu chuẩn và thủ tục hành chính phức tạp, rào cản phi thuế quan đang trở thành một “nút thắt vô hình” mà cả doanh nghiệp trong nước lẫn doanh nghiệp nước ngoài buộc phải vượt qua khi muốn tiếp cận thị trường ASEAN. 

Theo các chuyên gia tại Hội thảo “Gỡ bỏ rào cản phi thuế quan vì thịnh vượng chung ASEAN ” do Báo Tài chính - Đầu tư tổ chức vào ngày 27/6, cần có những biện pháp đồng bộ và thực chất hơn để từng bước tháo gỡ các rào cản phi thuế quan đang tồn tại hướng đến một cộng đồng Kinh tế ASEAN năng động, hội nhập sâu rộng và phát triển bền vững.

CÁC BIỆN PHÁP PHI THUẾ QUAN GÂY NHIỀU TRỞ NGẠI LỚN VỚI DOANH NGHIỆP

Trong suốt thời gian qua, trong tiến trình hội nhập khu vực, ASEAN đã đạt được những bước tiến quan trọng như tỷ lệ thuế quan nội khối được cắt giảm xuống dưới 1%. Tuy nhiên, các rào cản phi thuế quan vẫn đang là thách thức đối với cộng đồng doanh nghiệp.

Thống kê của Ngân hàng Thế giới (World Bank) chỉ ra rằng hiện có chín loại biện pháp phi thuế quan chủ yếu đang được sử dụng trên toàn cầu. Trong đó biện pháp kiểm dịch động thực vật và an toàn thực phẩm (SPS) được sử dụng nhiều nhất với tỷ lệ 37,5%; tiếp đó là rào cản kỹ thuật đối với thương mại (TBT) với 37,5%; kiểm tra hàng hóa trước vận chuyển và các thủ tục khác là 1,3%...

Theo ông Lê Trọng Minh, Phó Tổng biên tập Báo Tài chính - Đầu tư, đối với các doanh nghiệp, đặc biệt là doanh nghiệp vừa và nhỏ (SMEs), những rào cản này lại càng trở nên phức tạp và tốn kém hơn. Họ thường phải chi trả chi phí tuân thủ cao do cần kiểm định lại sản phẩm theo tiêu chuẩn riêng biệt của từng quốc gia ASEAN.

 

Theo nghiên cứu của Dự án Phân tích Thương mại Toàn cầu (GTAP) thuộc Đại học Purdue (Hoa Kỳ), chỉ cần giảm 10% chi phí do các rào cản phi thuế quan gây ra, ASEAN có thể ghi nhận mức tăng trưởng thương mại từ 3 - 4%, tương đương hàng chục tỷ USD mỗi năm.

Không chỉ vậy, nhiều doanh nghiệp còn gặp khó khăn do thiếu thông tin kịp thời về thay đổi kỹ thuật, yêu cầu về chứng nhận như Halal hay dược phẩm, cũng như các thủ tục số hóa, đặc biệt là ở những khu vực ngoài các trung tâm kinh tế lớn.

Ngoài ra, bà Caroline Beresford, Đại sứ New Zealand tại Việt Nam, cũng cho rằng mặc dù có nhiều biện pháp phi thuế quan như các quy định về an ninh sinh học là cần thiết để bảo vệ sức khỏe cộng đồng, vật nuôi và cây trồng. Tuy nhiên, nếu những biện pháp này được triển khai không phù hợp hoặc quá mức cần thiết, chúng có thể trở thành rào cản thực sự, cản trở dòng chảy hàng hóa và dịch vụ, làm chậm quá trình xuất khẩu, từ đó phương hại đến các nỗ lực hội nhập sâu rộng của ASEAN.

“Các biện pháp này, nếu bị lạm dụng hoặc thiếu minh bạch, sẽ khiến thương mại khu vực gặp khó khăn, đồng thời làm suy giảm lòng tin của doanh nghiệp và cản trở sự phát triển bền vững chung”, Đại sứ Beresford nhấn mạnh.

Đặc biệt, dưới góc nhìn từ lĩnh vực logistics, bà Chu Kiều Liên, Giám đốc Công ty T&M Forwarding, cho biết nhiều doanh nghiệp xuất nhập khẩu tại Việt Nam, đặc biệt trong lĩnh vực nông nghiệp và thủy hải sản, đang vấp phải hàng loạt rào cản phi thuế quan như: tiêu chuẩn kỹ thuật chồng chéo, kiểm duyệt an toàn thực phẩm, cơ sở hạ tầng hải quan chưa đồng bộ và sự thiếu nhất quán giữa các bộ, ban, ngành. Thậm chí, trong một số trường hợp, doanh nghiệp phải xin phép từ hai bộ khác nhau thì mới đủ điều kiện nhập khẩu hàng hóa vào Việt Nam.

“Những rào cản như vậy làm gia tăng đáng kể chi phí hoạt động, từ chi phí kiểm soát chất lượng, tuyển dụng nhân sự chuyên trách về thủ tục xuất nhập khẩu, đến chi phí lưu kho. Đặc biệt, những vấn đề này ảnh hưởng trực tiếp đến thời gian giao hàng - yếu tố then chốt trong ngành logistics”, bà Liên nhấn mạnh.

Ngoài ra, một ví dụ điển hình cho thấy mức độ phức tạp của các biện pháp phi thuế quan là khi các doanh nghiệp Việt Nam đẩy mạnh xuất khẩu sang thị trường Halal. Theo đó, giấy chứng nhận Halal là yêu cầu bắt buộc đối với các sản phẩm xuất khẩu sang các nước Hồi giáo như Indonesia, Malaysia và Brunei. Tuy nhiên, quy trình xin chứng nhận Halal có thể kéo dài từ 3 đến 6 tháng, chi phí cao và phức tạp, tùy thuộc vào từng quốc gia và chuỗi cung ứng của doanh nghiệp.

“Điều này tạo ra trở ngại lớn cho doanh nghiệp Việt Nam trong việc thâm nhập thị trường Halal, đồng thời khiến họ gặp bất lợi khi cạnh tranh với các nhà cung cấp bản địa vốn đã quen thuộc với hệ thống và yêu cầu tại đây”, bà Lê Hằng, Phó Tổng thư ký Hiệp hội Chế biến và Xuất khẩu Thủy sản Việt Nam (VASEP), cho hay.

CHỦ ĐỘNG TRIỂN KHAI CÁC BIỆN PHÁP CẦN THIẾT ĐỂ GIẢM THIỂU CÁC RÀO CẢN PHI THUẾ QUAN

Theo Hội nghị Liên Hợp Quốc về Thương mại và Phát triển (UNCTAD), chi phí thương mại phát sinh từ các rào cản phi thuế quan chiếm từ 2 đến 4% giá trị hàng hóa. Trong khi đó, một nghiên cứu của Dự án Phân tích Thương mại Toàn cầu (GTAP) thuộc Đại học Purdue (Hoa Kỳ) ước tính rằng nếu chỉ cần giảm 10% chi phí do các rào cản phi thuế quan gây ra, ASEAN có thể ghi nhận mức tăng trưởng thương mại từ 3 - 4%, tương đương hàng chục tỷ USD mỗi năm.

Chính vì vậy, việc tháo gỡ các rào cản phi thuế quan một cách hợp lý và hiệu quả sẽ mang lại nhiều lợi ích thiết thực trong việc giảm đáng kể chi phí giao dịch, mà còn tạo điều kiện thuận lợi cho các doanh nghiệp vừa và nhỏ tiếp cận thị trường nội khối ASEAN. 

Hơn thế nữa, môi trường kinh doanh minh bạch, chuỗi cung ứng thông suốt sẽ là yếu tố then chốt thu hút dòng vốn đầu tư trong khu vực. Việc tiếp cận được các sản phẩm chất lượng, an toàn và có giá cả cạnh tranh sẽ góp phần củng cố niềm tin của người tiêu dùng, từ đó thúc đẩy tăng trưởng bền vững.

Tuy nhiên, theo các chuyên gia, tháo gỡ rào cản phi thuế quan không có nghĩa là mở cửa thị trường một cách vô điều kiện. Trọng tâm ở đây chính là loại bỏ các biện pháp bất hợp lý, chồng chéo, đồng thời thúc đẩy hài hòa hóa tiêu chuẩn kỹ thuật giữa các quốc gia ASEAN. 

Tại Việt Nam, để vượt qua các rào cản phi thuế quan, cộng đồng doanh nghiệp cần chủ động triển khai những giải pháp cụ thể. Đặc biệt, trong lĩnh vực xuất khẩu thủy sản, bà Hằng nhấn mạnh rằng các doanh nghiệp phải liên tục “chủ động và thích ứng” để ứng phó với những yêu cầu ngày càng khắt khe từ các thị trường quốc tế.

Thứ nhất, các doanh nghiệp cần chủ động nắm bắt kịp thời những biến động của thị trường mục tiêu của mình, nhất là về cung - cầu và các quy định, chính sách liên quan của từng thị trường.

Thứ hai, cần nâng cao năng lực về việc cập nhật thông tin cũng như xử lý và cập nhật thông tin về hệ thống tiêu chuẩn, quy chuẩn kỹ thuật trong và ngoài nước thông qua các chương trình đào tạo, hội thảo,...

Thứ ba, chủ động ứng dụng khoa học - công nghệ, đổi mới sáng tạo trong toàn bộ chuỗi sản xuất và chế biến củ mình để nâng cao chất lượng sản phẩm nhằm đáp ứng yêu cầu từ các thị trường khó tính như thị trường Halal.

Bổ sung thêm góc nhìn từ quốc tế, Đại sứ Beresford, cho rằng Chính phủ các nước trong khu vực, trong đó có Việt Nam và New Zealand, đã có những bước tiến đáng kể trong việc giảm thiểu các rào cản phi thuế quan. Tuy nhiên, các quốc gia vẫn còn nhiều việc cần làm và chỉ có thể làm được với nỗ lực tập thể từ tất cả các bên. 

Trong đó, Đại sứ nhấn mạnh tiếng nói của cộng đồng doanh nghiệp đóng vai trò thiết yếu trong việc giảm thiểu các rào cản phi thế quan . Việc chia sẻ kinh nghiệm thực tế sẽ giúp xác định những khoảng trống chính sách cần điều chỉnh. Đồng thời, tích cực đẩy mạnh các hoạt động ruyền thông sẽ đóng vai trò quan trọng trong việc nâng cao nhận thức và truyền tải các nội dung mang tính xây dựng về các biện pháp phi thuế quan trong thời gian tới.

“Về phía các nhà hoạch định chính sách, điều quan trọng nhất là phải lắng nghe cẩn trọng, biến các phản hồi thành quy định minh bạch, hiệu quả và phù hợp với cam kết quốc tế, từ đó hỗ trợ doanh nghiệp phát triển bền vững”, Đại sứ Beresford khẳng định.

Attention
The original article is written and published on VnEconomy in Vietnamese only. To read the full article, please use the Google Translate tool below to translate the content into your preferred language.
VnEconomy is not responsible for the translation.

Google translate