Một trong những nội dung quan trọng của dự thảo Luật Thuế tiêu thụ đặc biệt (dự kiến trình Quốc hội cho ý kiến tại Kỳ họp tháng 10 tới đây và thông qua tại Kỳ họp tháng 5/2025) là tăng thuế suất thuế tiêu thụ đặc biệt đối với sản phẩm rượu, bia liên tục từ năm 2026 và đến năm 2030 sẽ chịu thuế suất lên tới 100%.
Dự thảo đề xuất hai phương án đánh thuế với mặt hàng rượu bia; trong đó, Bộ Tài chính đang nghiêng về phương án 2. Đó là: rượu từ 20 độ trở lên sẽ áp thuế 80% vào năm 2026, tăng dần lên 100% vào 2030; rượu dưới 20 độ chịu thuế 50%, sau đó tăng lên cao nhất 70%; thuế suất đối với bia cũng tăng dần, từ 80% lên 100%.
24 NGÀNH SẼ BỊ ẢNH HƯỞNG
Theo TS. Nguyễn Minh Thảo, Trưởng ban Môi trường kinh doanh và Năng lực cạnh tranh, Viện Nghiên cứu quản lý kinh tế Trung ương (CIEM), mục tiêu của thuế tiêu thụ đặc biệt là điều tiết hành vi tiêu dùng, trên cơ sở đó mới điều tiết sản xuất và hành vi tiêu dùng hướng tới bảo vệ sức khỏe, bảo vệ môi trường. Mục tiêu cuối cùng mới là thu ngân sách.
Xét theo mục tiêu đó, việc tăng thuế tiêu thụ đặc biệt với rượu, bia là cần thiết, nhằm điều tiết hành vi tiêu dùng đối với sản phẩm không có lợi cho sức khỏe nếu lạm dụng.
“Tuy vậy, bất kỳ chính sách nào khi được ban hành cần được đánh giá toàn diện trên nhiều khía cạnh”, bà Thảo nhấn mạnh.
Bởi theo bà Thảo, kết quả kháo sát sơ bộ cho thấy, việc tăng thuế này có thể tác động gián tiếp tới 24 ngành hàng trong nền kinh tế. Do đó, cần có đánh giá toàn diện việc tăng thuế này vì không chỉ tác động tới ngành rượu, bia mà còn cả các ngành khác như dịch vụ lưu trú và ăn uống…
Mặt khác, theo bà Thảo, các nhà đầu tư khi lựa chọn đầu tư vào lĩnh vực nào đó tại Việt Nam, họ thường có tầm nhìn dài hạn, lên tới vài chục năm. Vì thế, nếu chính sách thay đổi không chỉ ảnh hưởng trực tiếp tới các doanh nghiệp trong ngành hàng đó, mà còn khiến nhà đầu tư trong ngành hàng khác sẽ nhìn vào và lo ngại về rủi ro chính sách. “Điều này sẽ ảnh hưởng đến việc thu hút đầu tư của nền kinh tế”, bà Thảo nêu quan điểm.
Trên thực tế, các nhà máy sản xuất bia, rượu được phân bổ hầu khắp cả nước, đóng góp không nhỏ cho ngân sách nhà nước, với hơn 60.000 tỷ đồng/năm. Bên cạnh đó, ngành còn tạo ra việc làm cho hàng triệu lao động trực tiếp trong các nhà máy cũng như trong các chuỗi ngành hàng có liên quan (logistics, dịch vụ…).
“Hiện, nhiền doanh nghiệp lớn, tập đoàn lớn đã phải cắt giảm lao động, thu hẹp quy mô, thay đổi cấu trúc để thích ứng với điều kiện hiện nay. Trong bối cảnh đó, việc đánh thuế lên tới 100% đến năm 2030 là một mức thuế suất rất lớn, doanh nghiệp rất bất ngờ và chưa đánh giá hết tác động của đề xuất này”, bà Chu Thị Vân Anh, Phó Chủ tịch kiêm Tổng thư ký Hiệp hội Bia, rượu và nước giải khát Việt Nam (VBA), thông tin.
Không chỉ vậy, theo bà Thảo, mặc dù việc tăng thuế nhằm mục đích hạn chế tiêu dùng để bảo vệ sức khỏe người dân song tác động của việc tăng thuế cần được cân nhắc toàn diện và tổng thể. Bởi nếu tăng thuế quá cao, dẫn đến mức giá tăng lên trên mức kỳ vọng của người tiêu dùng thì có thể dẫn đến hàng nhập lậu, hoặc sản xuất không theo tiêu chuẩn, quy chuẩn, ảnh hưởng lớn đến sức khỏe người tiêu dùng. Như vậy, mục tiêu bảo vệ sức khỏe khi tăng thuế có nguy cơ không đạt.
Dẫn kết quả khảo sát tại các đại phương, bà Chu Thị Vân Anh cho biết, với sản phẩm rượu tự nấu, không đăng ký với cơ quan quản lý thì giá rượu chỉ 40.000 đồng/lít, trong khi sản phẩm rượu tự nấu nhưng có đăng ký với cơ quan quản lý, sử dụng các trang thiết bị đạt chuẩn để sản xuất rượu thì giá tăng lên 45.000 đồng/lít; đa số người tiêu dùng có xu hướng lựa chọn rượu giá 40.000 đồng/lít.
CẦN LỘ TRÌNH ÁP THUẾ PHÙ HỢP
Nhấn mạnh tăng thuế tiêu thụ đặc biệt với rượu, bia là cần thiết, song ông Phan Đức Hiếu, Ủy viên Thường vụ Ủy ban Kinh tế Quốc hội, thừa nhận “vấn đề khó nhất là đánh thuế như nào? mức nào là hợp lý và lộ trình từ năm nào?”.
Theo ông, sản phẩm bia và rượu khác nhau nên kịch bản đánh thuế cần khác nhau. Mẫu số chung là phải đặt mục tiêu doanh nghiệp vẫn duy trì sản xuất, kinh doanh hiệu quả, hợp lý.
Trên cơ sở đó, ông Hiếu đề nghị, Cơ quan soạn thảo nên cân nhắc lộ trình đánh thuế theo hướng kéo giãn hơn so với đề xuất như dự thảo Luật. Đó là nên bắt đầu từ sau năm 2026, để doanh nghiệp có thời gian thay đổi, cơ cấu lại hoạt động sản xuất kinh doanh, thích ứng với chính sách thuế mới.
Về mức thuế, cần tính toán hết sức cẩn thận. Đối với ngành bia, tính hiệu quả của việc tăng thuế là khó rõ ràng, vì khi bia tăng giá, những người uống bia ít có khả năng chuyển sang uống rượu. Do đó, bia tăng giá có thể khiến họ uống ít hơn. Yếu tố bia kém chất lượng cũng không phải là vấn đề lớn với thị trường bia.
Theo ông Hiếu, với thị trường bia, chỉ nên cân nhắc lộ trình tăng thuế (từ năm 2027) và mức tăng không quá đột ngột dẫn đến người ta ngừng uống. Bởi nếu doanh nghiệp ngừng bán bia sẽ ảnh hưởng trực tiếp tới sản xuất, công ăn việc làm. Riêng với bia 0 độ, không nên đánh thuế tiêu thụ đặc biệt.
Tương tự, với thị trường rượu, cũng cần cân nhắc giãn lộ trình bắt đầu tăng thuế từ 2027, thay vì từ 2026. Về mức độ đánh thuế, ông Hiếu đề nghị cần cân nhắc hai vấn đề.
Một là, hiện thị trường rượu thủ công rất lớn, chưa kể nhóm rượu phi chính thức. Nếu mức thuế tăng quá cao khiến chi phí tăng quá lớn, người uống rượu sẽ tìm sang sản phẩm rượu thủ công, trong khi quản lý sản phẩm này còn hạn chế, khó bảo đảm yêu cầu chất lượng. Như vậy, tính hiệu qủa của chính sách thuế là giảm uống rượu sẽ không đạt được, thậm chí còn khiến rượu chính thức gặp bất lợi hơn so với rượu thủ công, rượu phi chính thức.
Hai là, cơ quan soạn thảo cần làm rõ vì sao phân chia rượu trên 20 độ và dưới 20 độ để áp thuế khác nhau. Bởi nếu không cẩn thận, rượu mạnh có thể được uống ít hơn, song lại dẫn đến sử dụng rượu thấp độ gia tăng.
Ủng hộ đề xuất áp dụng lộ trình tăng thuế tiêu thụ đặc biệt với đồ uống có cồn từ năm 2027, TS. Nguyễn Minh Thảo bổ sung, việc tăng thuế này không nên tăng hàng năm sẽ khó cho doanh nghiệp trong việc dự tính cũng như thích ứng hiệu quả. Có thể xem xét tăng thuế từ năm 2027, sau đó đến năm 2029 tăng tiếp.
Ở góc độ doanh nghiệp, bà Chu Thị Vân Anh đề xuất, việc tiếp cận chính sách tiên tiến của thế giới để tham khảo là cần thiết, song cần đánh giá bối cảnh thực tiễn của Việt Nam để đề ra lộ trình và mức thuế cho phù hợp. “Chúng tôi mong lộ trình áp dụng từ năm 2027, và tăng ở mức tối đa là 80% đến năm 2030, để tạo điều kiện cho doanh nghiệp phục hồi sau giai đoạn khó khăn”, bà đại diện VBA bày tỏ.