Sáng 30/9, Thủ tướng Phạm Minh Chính chủ trì phiên họp Chính phủ thường kỳ tháng 9/2023 và Hội nghị trực tuyến Chính phủ với các địa phương.
Tại phiên họp, các đại biểu tập trung thảo luận về tình hình kinh tế-xã hội tháng 9, quý 3 và 9 tháng, nhiệm vụ, giải pháp trọng tâm trong tháng 10 và những tháng còn lại của năm 2023, tình hình phân bổ, giải ngân vốn đầu tư công, triển khai Chương trình phục hồi và phát triển kinh tế-xã hội, 3 chương trình mục tiêu quốc gia, Báo cáo giữa nhiệm kỳ theo Nghị quyết của Quốc hội về kế hoạch phát triển kinh tế-xã hội 5 năm 2021-2025. Các Bộ trưởng cũng đã phản hồi, trả lời các đề xuất, kiến nghị của các địa phương.
VIỆT NAM THUỘC NHÓM TĂNG TRƯỞNG CAO TRONG KHU VỰC VÀ TRÊN THẾ GIỚI
Các báo cáo và ý kiến tại hội nghị thống nhất đánh giá trong 9 tháng năm 2023, với phương châm "Đoàn kết kỷ cương, bản lĩnh linh hoạt, đổi mới sáng tạo, kịp thời hiệu quả", Chính phủ, Thủ tướng Chính phủ đã tập trung chỉ đạo các bộ, ngành, địa phương triển khai thực hiện quyết liệt, đồng bộ các nhiệm vụ, giải pháp theo các Nghị quyết, Kết luận của Trung ương, Bộ Chính trị, Quốc hội, Chính phủ.
Phiên họp thống nhất đánh giá, nhìn chung, tình hình kinh tế-xã hội tiếp tục xu hướng phục hồi tích cực, tháng sau tốt hơn tháng trước, quý sau cao hơn quý trước và đạt kết quả quan trọng trên nhiều lĩnh vực, với một số kết quả nổi bật.
Thứ nhất, kinh tế vĩ mô tiếp tục được duy trì ổn định; lạm phát được kiểm soát; tăng trưởng được thúc đẩy; các cân đối lớn của nền kinh tế được bảo đảm; nợ công, nợ Chính phủ, nợ nước ngoài quốc gia, bội chi ngân sách nhà nước được kiểm soát theo Nghị quyết của Quốc hội.
Lạm phát nhìn chung có xu hướng giảm dần trong bối cảnh lạm phát thế giới neo ở mức cao: CPI bình quân 9 tháng tăng 3,16%, thấp hơn nhiều mục tiêu đề ra (khoảng 4,5%). Tăng trưởng phục hồi tích cực, quý sau cao hơn quý trước: GDP quý 1 tăng 3,32%, quý 2 tăng 4,14%, quý 3 tăng 5,33%; tính chung 9 tháng tăng 4,24%, thuộc nhóm nước tăng trưởng cao trong khu vực và thế giới.
Thứ hai, các ngành, lĩnh vực chủ yếu phục hồi, phát triển ổn định, đặc biệt là lĩnh vực công nghiệp tiếp tục tăng trở lại, giá trị tăng thêm toàn ngành công nghiệp quý 3 tăng 4,57% (quý 2 tăng 0,95%, quý 1 giảm 0,75%), trong đó công nghiệp chế biến, chế tạo tăng 5,61%.
Thứ ba, đầu tư được thúc đẩy mạnh mẽ, trở thành một động lực quan trọng thúc đẩy tăng trưởng kinh tế. Tổng vốn đầu tư phát triển toàn xã hội quý 1 tăng 3,6%; quý 2 tăng 5,6%; quý 3 tăng 7,6%; tính chung 9 tháng tăng 5,9%.
Thứ tư, công tác quy hoạch được đẩy mạnh; hệ thống kết cấu hạ tầng giao thông được tập trung đầu tư. Đã trình Quốc hội thông qua Quy hoạch tổng thể quốc gia; ban hành Quy hoạch điện 8 và nhiều quy hoạch ngành, lĩnh vực, vùng, tỉnh. Đến nay đã có 74 quy hoạch cấp quốc gia, quy hoạch vùng, quy hoạch tỉnh đã thẩm định xong (27 quy hoạch đã được phê duyệt). Quyết liệt triển khai các Nghị quyết của Bộ Chính trị về phát triển 6 vùng kinh tế-xã hội; thành lập và chỉ đạo đẩy mạnh hoạt động, phát huy vai trò của 6 Hội đồng điều phối vùng.
Thứ năm, phát triển doanh nghiệp tiếp tục xu hướng tích cực. Trong tháng 9 có gần 12,7 nghìn doanh nghiệp thành lập mới, tăng 10,6% so với cùng kỳ; có trên 5,8 nghìn doanh nghiệp quay trở lại hoạt động, tăng 13,5%.
Thứ sáu, các lĩnh vực văn hoá, xã hội, giáo dục, y tế được chú trọng; an sinh xã hội và đời sống người dân tiếp tục được cải thiện. Thu nhập bình quân người lao động quý 3 tăng 146.000 đồng so với quý 2; tính chung 9 tháng tăng 451.000 đồng so với cùng kỳ. Tỉ lệ hộ dân có thu nhập không thay đổi và tăng lên so với cùng kỳ là 94,1% (cùng kỳ năm 2022 là 83,2%).
Thứ bảy, công tác cải cách thủ tục hành chính; sắp xếp tổ chức bộ máy, tinh giản biên chế được đẩy mạnh; tích cực triển khai Đề án 06. Đã cắt giảm, đơn giản hoá 2.189 quy định kinh doanh; 68,8% thủ tục hành chính được cung cấp trực tuyến. Chấn chỉnh kỷ luật, kỷ cương; rà soát, sắp xếp đơn vị hành chính cấp huyện, cấp xã; đẩy mạnh chuyển đổi số quốc gia, triển khai Đề án 06…
Các tổ chức quốc tế tiếp tục đánh giá tích cực về Việt Nam. Đặc biệt, về chỉ số đổi mới sáng tạo toàn cầu (GII) năm 2023, Việt Nam xếp hạng 46/132, tăng 2 bậc so với năm 2022; xếp hạng môi trường kinh doanh tăng 12 bậc; xếp hạng giá trị thương hiệu quốc gia tăng 01 bậc, xếp thứ 32/100 với trị giá 431 tỷ USD, có mức tăng trưởng nhanh nhất thế giới tính từ năm 2019 đến nay (74%).
KIÊN ĐỊNH VỚI CÁC MỤC TIÊU ĐỀ RA
Phát biểu kết luận phiên họp, Thủ tướng Phạm Minh Chính cơ bản thống nhất với các báo cáo và ý kiến tại phiên họp, ghi nhận, biểu dương nỗ lực, kết quả của các bộ, ngành, địa phương, đóng góp vào thành tựu chung của cả nước.
Bên cạnh những thành tựu, kết quả rất cơ bản đạt được, Thủ tướng cho rằng tốc độ tăng trưởng GDP chưa được như mong muốn. Lạm phát còn chịu nhiều sức ép. Các động lực tăng trưởng gặp khó khăn, như công nghiệp phục hồi chậm, giá trị tăng thêm 9 tháng chỉ tăng 1,65%. Tình hình lao động, việc làm gặp nhiều thách thức. Đời sống một bộ phận người dân còn khó khăn, nhất là vùng sâu, vùng xa, đồng bào dân tộc, biên giới, hải đảo. Dịch bệnh, biến đổi khí hậu, bão lũ, nắng nóng El Nino, hạn hán, sạt lở đất… diễn biến phức tạp. Tình hình an ninh trật tự ở một số địa bàn, lĩnh vực tiềm ẩn nguy cơ, nhất là tội phạm mạng, ma tuý, bán hàng đa cấp, tín dụng đen; diện tích rừng bị chặt phá, bị cháy tăng mạnh...
Các ý kiến tại cuộc họp cũng thống nhất đánh giá tình hình sẽ còn tiếp tục có nhiều khó khăn, thách thức. Bên cạnh đó, chúng ta có những thuận lợi như nền tảng vĩ mô tương đối tốt và chiều hướng phục hồi của nền kinh tế, quan hệ quốc tế thuận lợi, niềm tin thị trường, niềm tin của nhà đầu tư ngày càng được củng cố và tăng cường.
Với yêu cầu tiếp tục kiên định mục tiêu tổng quát đã đề ra, Thủ tướng nhấn mạnh cần bám sát thực tiễn, nắm chắc tình hình, tăng cường năng lực phân tích, dự báo để phản ứng chính sách chủ động, tích cực, kịp thời, linh hoạt, hiệu quả, chuẩn bị kỹ các phương án, kịch bản, giải pháp ứng phó với các tình huống có thể xảy ra; dứt khoát không trông chờ, ỷ lại, đùn đẩy, né tránh, "không nói không, không nói khó, không nói có mà không làm".
Đẩy mạnh hơn nữa phát triển hạ tầng chiến lược, nhất là hạ tầng giao thông, ứng phó biến đổi khí hậu, hạ tầng số, chuyển đổi xanh, hạ tầng xã hội (y tế, giáo dục, văn hóa). Tích cực tháo gỡ khó khăn về pháp lý cho người dân và doanh nghiệp. Chú trọng đào tạo nhân lực đáp ứng yêu cầu mới, các ngành mới nổi. Tiếp tục phân cấp, phân quyền, cải cách mạnh mẽ thủ tục hành chính, giảm chi phí tuân thủ cho người dân và doanh nghiệp.
Thủ tướng nêu rõ, trong bối cảnh hiện nay, cần tiếp tục ưu tiên thúc đẩy tăng trưởng và cụ thể là công nghiệp chế biến, chế tạo. Tiếp tục cụ thể hoá các Nghị quyết Đại hội XIII, các Nghị quyết của Trung ương, Bộ Chính trị, Quốc hội, Chính phủ, chỉ đạo của Thủ tướng Chính phủ, trong đó tập trung đẩy mạnh thực hiện các đột phá chiến lược, cơ cấu lại nền kinh tế gắn với đổi mới mô hình tăng trưởng; thúc đẩy mạnh mẽ các ngành mới nổi, đổi mới sáng tạo, kinh tế số, kinh tế xanh, kinh tế tuần hoàn, kinh tế chia sẻ…; đẩy nhanh đô thị hoá, xây dựng đô thị thông minh gắn với phát triển 6 vùng kinh tế-xã hội, tăng cường liên kết vùng… qua đó tái cơ cấu nền kinh tế theo hướng phát triển nhanh và bền vững trong dài hạn.
TẬP TRUNG VÀO 8 NỘI DUNG TRỌNG TÂM
Về các nhiệm vụ, giải pháp chủ yếu, Thủ tướng nhấn mạnh 8 nội dung trọng tâm.
Thứ nhất, điều hành chủ động, linh hoạt, phối hợp đồng bộ, hài hoà giữa các chính sách, nhất là các chính sách tài khoá, tiền tệ. Tiếp tục thực hiện chính sách tiền tệ chủ động, linh hoạt, kịp thời, hiệu quả; phối hợp đồng bộ, chặt chẽ, hài hoà với chính sách tài khoá mở rộng hợp lý, có trọng tâm, trọng điểm và các chính sách khác để ưu tiên thúc đẩy tăng trưởng gắn với ổn định kinh tế vĩ mô. Đặc biệt chú trọng công tác điều phối kinh tế vĩ mô giữa các Bộ: Kế hoạch và Đầu tư, Tài chính, Công Thương và Ngân hàng Nhà nước.
Thứ hai, để thúc đẩy mạnh mẽ 3 động lực tăng trưởng, Thủ tướng yêu cầu thúc đẩy đầu tư công, đầu tư tư nhân, đầu tư nước ngoài và tăng cường hợp tác công tư (PPP), thu hút FDI có chọn lọc, nhất là những ngành mới nổi, công nghệ cao… Trong đó, Thủ tướng yêu cầu tập trung cho hạ tầng, đào tạo nhân lực và cải cách thủ tục hành chính để chuẩn bị đón các dự án FDI mới.
Về xuất khẩu, cần giữ vững, củng cố các thị trường truyền thống và tích cực mở rộng các thị trường mới (Trung Đông, Châu Phi, Mỹ Latin); nâng cao chất lượng sản phẩm, dịch vụ đáp ứng các điều kiện, tiêu chuẩn mới; tận dụng cơ hội các FTA đã ký kết; đẩy mạnh đàm phán, ký kết các hiệp định, cam kết, liên kết thương mại mới.
Về tiêu dùng, phát triển mạnh thị trường trong nước hơn 100 triệu dân; đẩy mạnh cuộc vận động "Người Việt Nam ưu tiên dùng hàng Việt Nam"; tổ chức rộng khắp các chương trình khuyến mại, kích cầu tiêu dùng trên cả nước; thúc đẩy thương mại điện tử; bảo đảm cân đối cung cầu hàng hóa, nhất là hàng thiết yếu trong dịp lễ tết, cuối năm; tăng cường phòng, chống buôn lậu, gian lận thương mại…
Thứ ba, đẩy mạnh giải ngân vốn đầu tư công, thực hiện quyết liệt Chương trình phục hồi và phát triển kinh tế-xã hội, 3 chương trình mục tiêu quốc gia. Tập trung vốn, đẩy nhanh tiến độ các công trình hạ tầng trọng điểm, quan trọng quốc gia, sớm hoàn thành đưa vào sử dụng; kiên quyết không để tình trạng dàn trải, kém hiệu quả.
Thứ tư, tập trung phát triển mạnh các ngành, lĩnh vực chủ yếu. Trong đó, thúc đẩy phát triển mạnh mẽ sản xuất công nghiệp, nhất là công nghiệp chế biến chế tạo để trở thành động lực chủ yếu của tăng trưởng kinh tế trong thời gian tới.
Thúc đẩy mạnh sản xuất lương thực, thực phẩm, các mặt hàng thiết yếu đáp ứng nhu cầu cuối năm, các dịp lễ tết; tận dụng tốt cơ hội xuất khẩu nông sản, đồng thời bảo đảm an ninh lương thực quốc gia; thực hiện quyết liệt, đồng bộ, hiệu quả các giải pháp chống khai thác thuỷ sản bất hợp pháp (IUU) để gỡ thẻ vàng của EU .
Về dịch vụ, du lịch, phát triển mạnh các ngành dịch vụ có tiềm năng, lợi thế, ứng dụng công nghệ cao (vận tải, logistics, giáo dục, y tế, ngân hàng…); đẩy mạnh thu hút du lịch, nâng cao chất lượng dịch vụ, đẩy mạnh xúc tiến du lịch các thị trường trọng điểm.
Thứ năm, chú trọng tận dụng thời cơ, phát triển các ngành, lĩnh vực mới nổi, tạo động lực thúc đẩy tăng trưởng, nhất là chuyển đổi số (như sản xuất chip bán dẫn, trí tuệ nhân tạo, năng lượng sạch, tăng trưởng xanh, kinh tế tuần hoàn, kinh tế chia sẻ…); không để bỏ lỡ cơ hội thu hút đầu tư từ việc nâng cấp quan hệ và các hiệp định thương mại, đầu tư với các đối tác.
Thứ sáu, thúc đẩy mạnh mẽ cải cách thủ tục hành chính, tháo gỡ khó khăn, vướng mắc cho sản xuất kinh doanh với việc phát huy vai trò 26 tổ công tác của Chính phủ. Đẩy mạnh triển khai số hóa hồ sơ, kết quả giải quyết thủ tục hành chính; tăng cường rà soát, cắt giảm, đơn giản hóa, bảo đảm thực chất, hiệu quả trên cơ sở lấy người dân, doanh nghiệp làm trung tâm.
Thứ bảy, chú trọng phát triển các lĩnh vực văn hoá, xã hội, môi trường, nhất là các chính sách người có công, bảo trợ xã hội, y tế, giáo dục đào tạo, giảm nghèo, bảo đảm an sinh xã hội, bảo vệ môi trường, nâng cao đời sống nhân dân.
Thứ tám, thực hiện nghiêm túc, hiệu quả công tác phòng, chống tham nhũng, tiêu cực, thực hành tiết kiệm, chống lãng phí, giải quyết khiếu nại, tố cáo. Bảo đảm vững chắc quốc phòng, an ninh, trật tự an toàn xã hội; giữ vững độc lập, chủ quyền, toàn vẹn lãnh thổ. Đặc biệt chú trọng công tác phòng cháy chữa cháy. Triển khai hiệu quả các hoạt động đối ngoại, hội nhập quốc tế; đẩy mạnh ngoại giao kinh tế, tìm kiếm thị trường cho sản phẩm xuất khẩu chủ lực.
Thủ tướng cũng yêu cầu các bộ, cơ quan được giao nhiệm vụ chủ trì và phối hợp cần tập trung rà soát, chuẩn bị kỹ nội dung, hoàn thiện các báo cáo, tờ trình Hội nghị Trung ương và Kỳ họp Quốc hội sắp tới, bảo đảm chất lượng, tiến độ. Đồng thời tiếp tục nỗ lực hơn nữa để hoàn thành đạt mức cao nhất các mục tiêu, nhiệm vụ kế hoạch năm 2023, tạo điều kiện thuận lợi cho triển khai thực hiện kế hoạch năm 2024 và tiến tới hoàn thành mục tiêu Đại hội Đảng toàn quốc lần thứ XIII đề ra cho cả nhiệm kỳ.
Trên cơ sở kết quả 9 tháng, dự báo bối cảnh, tình hình thế giới, trong nước thời gian tới, Bộ Kế hoạch và Đầu tư đã cập nhật các kịch bản tăng trưởng quý 4 và cả năm 2023.
Kịch bản 1: Tăng trưởng kinh tế cả năm khoảng 5,0%, quý 4 cần tăng 7,0% (quý 4 năm 2022 tăng 5,92%).
Kịch bản 2: Tăng trưởng kinh tế cả năm khoảng 5,5%, quý 4 cần tăng 8,8%.
Kịch bản 3: Tăng trưởng kinh tế cả năm khoảng 6%, quý 4 cần tăng 10,6%.
Về nội dung này, Thủ tướng yêu cầu lựa chọn kịch bản tăng trưởng GDP cả năm khoảng 6% để tiếp tục phấn đấu đạt kết quả cao nhất có thể cho năm 2023.