Nội dung trên được nêu trong Nghị quyết kỳ họp thứ 7, Quốc hội khóa XV vừa được Quốc hội thông qua ngày 29/6/2024 với đại đa số đại biểu tán thành.
CÁC NHÓM HÀNG HÓA, DỊCH VỤ ĐANG ÁP DỤNG MỨC THUẾ SUẤT 10% SẼ TIẾP TỤC ĐƯỢC GIẢM THUẾ 2%
Báo cáo giải trình, tiếp thu, chỉnh lý, dự thảo Nghị quyết Kỳ họp thứ 7, Ủy ban Thường vụ Quốc hội cho biết theo một số ý kiến, việc xác định hàng hóa, dịch vụ thuộc diện được giảm thuế còn khó khăn, vướng mắc trong thực hiện, chưa thực sự tạo thuận lợi cho doanh nghiệp.
Do đó, đề nghị giảm 2% thuế suất thuế giá trị gia tăng đối với tất cả các nhóm đối tượng đang áp dụng mức thuế suất 10% theo quy định của Luật Thuế giá trị gia tăng; đồng thời, đề nghị cân nhắc kéo dài thời gian áp dụng chính sách có thể đến hết năm 2025 hoặc đến khi Luật Thuế giá trị gia tăng (sửa đổi) có hiệu lực.
Theo Ủy ban Thường vụ Quốc hội, phạm vi các nhóm hàng hoá, dịch vụ được giảm thuế giá trị gia tăng đã được xác định khi ban hành Nghị quyết số 43/2022/QH15 và áp dụng thống nhất trong Nghị quyết số 101/2023/QH15 và Nghị quyết số 110/2023/QH15 của Quốc hội. Chính phủ đã ban hành Nghị định và các văn bản hướng dẫn thực hiện thời gian qua.
Đối với các vướng mắc trong thực hiện chính sách liên quan đến việc xác định đối tượng thuộc diện được giảm thuế, theo báo cáo của Chính phủ, về cơ bản, các nội dung này đã được tháo gỡ thông qua việc Bộ Tài chính chủ động phối hợp với các bộ, ngành liên quan để xử lý và kịp thời ban hành các văn bản hướng dẫn thực hiện.
Về thời gian thực hiện, Chính phủ đề nghị thời gian áp dụng chính sách từ ngày 1/7/2024 đến hết ngày 31/12/2024 và hiện không có cơ sở để kéo dài thêm thời gian áp dụng chính sách này.
Vì vậy, xin giữ phạm vi đối tượng giảm thuế như quy định tại Nghị quyết số 43/2022/QH15 của Quốc hội và thời gian áp dụng chính sách từ ngày 1/7/2024 đến hết ngày 31/12/2024.
Theo đó, mục 15 của Nghị quyết Kỳ họp thứ 7, Quốc hội khóa XV nêu rõ: Tiếp tục giảm 2% thuế suất thuế giá trị gia tăng đối với các nhóm hàng hóa, dịch vụ quy định tại điểm a mục 1.1 khoản 1 Điều 3 của Nghị quyết số 43/2022/QH15 của Quốc hội về chính sách tài khóa, tiền tệ hỗ trợ Chương trình phục hồi và phát triển kinh tế-xã hội trong thời gian từ ngày 1/7/2024 đến hết ngày 31/12/2024.
Như vậy, với quyết sách này, các nhóm hàng hóa, dịch vụ đang áp dụng mức thuế suất 10% sẽ được giảm thuế 2% thuế VAT (còn 8%). Trừ một số nhóm hàng hóa, dịch vụ không được giảm như: viễn thông, công nghệ thông tin, hoạt động tài chính, ngân hàng, chứng khoán, bảo hiểm, kinh doanh bất động sản, sản xuất kim loại và sản xuất sản phẩm từ kim loại đúc sẵn, khai khoáng (trừ khai thác than), sản xuất than cốc, dầu mỏ tinh chế, sản xuất hóa chất và sản phẩm hóa chất, các sản phẩm hàng hóa và dịch vụ chịu thuế tiêu thụ đặc biệt.
Trình bày dự thảo Nghị quyết kỳ họp thứ 7, Tổng Thư ký Quốc hội, Chủ nhiệm Văn phòng Quốc hội Bùi Văn Cường cho biết Nghị quyết giao Chính phủ tổ chức thực hiện chính sách bảo đảm đạt mục tiêu đề ra; chịu trách nhiệm điều hành, thực hiện nhiệm vụ thu, không làm ảnh hưởng đến dự toán thu và bội chi ngân sách nhà nước năm 2024 theo Nghị quyết của Quốc hội; đảm bảo nguồn thu cho các nhiệm vụ chi đã được dự toán và nhu cầu cấp bách phát sinh.
CHÍNH THỨC ĐIỀU CHỈNH MỨC LƯƠNG CƠ SỞ LÊN 2,34 TRIỆU ĐỒNG/THÁNG TỪ NGÀY 1/7/2024
Về vấn đề tiền lương, Nghị quyết nêu rõ: Căn cứ Kết luận số 83-KL/TW ngày 21/6/2024 của Bộ Chính trị và Báo cáo số 329/BC-CP ngày 21/6/2024 của Chính phủ, Quốc hội thống nhất thực hiện các nội dung cải cách tiền lương; điều chỉnh lương hưu, trợ cấp bảo hiểm xã hội, trợ cấp ưu đãi người có công và trợ cấp xã hội từ ngày 1/7/2024.
Cụ thể, thực hiện đầy đủ 2 nội dung cải cách tiền lương khu vực doanh nghiệp theo đúng Nghị quyết số 27-NQ/TW, gồm: Điều chỉnh mức lương tối thiểu vùng theo quy định của Bộ luật Lao động (tăng bình quân 6% áp dụng từ ngày 1/7/2024); quy định cơ chế tiền lương đối với doanh nghiệp nhà nước (áp dụng từ ngày 1/1/2025).
Thực hiện cải cách tiền lương theo Nghị quyết số 27-NQ/TW trong khu vực công theo lộ trình, từng bước, thận trọng, chắc chắn, bảo đảm tính khả thi và góp phần nâng cao đời sống người hưởng lương.
Nghị quyết giao Chính phủ triển khai thực hiện các nội dung đã rõ, đủ điều kiện để thực hiện: Hoàn thiện chế độ nâng lương; bổ sung chế độ tiền thưởng; quy định nguồn kinh phí thực hiện chế độ tiền lương; hoàn thiện cơ chế quản lý tiền lương và thu nhập; điều chỉnh mức lương cơ sở từ 1,8 triệu đồng/tháng lên 2,34 triệu đồng/tháng (tăng 30%) từ ngày 1/7/2024.
Đối với các cơ quan, đơn vị đang được áp dụng các cơ chế tài chính, thu nhập đặc thù ở Trung ương: Chính phủ, các bộ, ngành liên quan tiếp tục rà soát toàn bộ khung khổ pháp lý để trình cấp thẩm quyền xem xét, quyết định việc sửa đổi hoặc bãi bỏ cơ chế tài chính và thu nhập đặc thù của các cơ quan, đơn vị đang được thực hiện cho phù hợp trước ngày 31/12/2024; thực hiện bảo lưu phần chênh lệch giữa tiền lương và thu nhập tăng thêm tháng 6/2024 của cán bộ, công chức, viên chức với tiền lương từ ngày 1/7/2024 sau khi sửa đổi hoặc bãi bỏ cơ chế tài chính và thu nhập đặc thù.
Trong thời gian chưa sửa đổi, bãi bỏ thì thực hiện như sau: Từ ngày 1/7/2024, mức tiền lương và thu nhập tăng thêm hằng tháng tính theo mức lương cơ sở 2,34 triệu đồng/tháng theo cơ chế đặc thù bảo đảm không vượt quá mức tiền lương và thu nhập tăng thêm được hưởng tháng 6/2024 (không bao gồm phần tiền lương và thu nhập tăng thêm do điều chỉnh hệ số tiền lương ngạch, bậc khi nâng ngạch, nâng bậc).
Trường hợp tính theo nguyên tắc trên, nếu mức tiền lương và thu nhập tăng thêm từ ngày 1/7/2024 theo cơ chế đặc thù thấp hơn mức tiền lương theo quy định chung thì thực hiện chế độ tiền lương theo quy định chung.
Từ ngày 1/7/2024, điều chỉnh tăng 15% mức lương hưu và trợ cấp bảo hiểm xã hội hiện hưởng (tháng 6/2024); đối với người đang hưởng lương hưu trước năm 1995 nếu sau khi điều chỉnh mà có mức hưởng thấp hơn 3,2 triệu đồng/tháng thì điều chỉnh tăng 300.000 đồng/tháng, có mức hưởng từ 3,2 triệu đồng/tháng đến dưới 3,5 triệu đồng/tháng thì điều chỉnh để bằng 3,5 triệu đồng/tháng.
Điều chỉnh trợ cấp ưu đãi người có công theo mức chuẩn trợ cấp từ 2.055.000 đồng lên 2.789.000 đồng/tháng (tăng 35,7%), giữ nguyên tương quan hiện hưởng các mức trợ cấp ưu đãi người có công so với mức chuẩn trợ cấp; điều chỉnh trợ cấp xã hội theo mức chuẩn trợ giúp xã hội từ 360.000 đồng lên 500.000 đồng/tháng (tăng 38,9%).