December 23, 2020 | 08:55 GMT+7

Xóa đói, giảm nghèo vẫn còn nhiều gian nan

Dũng Hiếu

Tỷ lệ nghèo đói cả nước đã giảm dần theo từng năm nhưng kết quả giảm nghèo vẫn chưa bền vững, tình trạng tái nghèo và phát sinh nghèo còn cao

Mô hình trao bò giống sinh sản cho người nghèo mang lại hiệu quả cao
Mô hình trao bò giống sinh sản cho người nghèo mang lại hiệu quả cao

Xóa đói, giảm nghèo luôn là một chính sách lớn của Đảng và Nhà nước suốt nhiều năm qua. Mặc dù là công việc vô cùng khó khăn nhưng đã có kết quả tích cực khi tỷ lệ nghèo đói cả nước đã giảm dần theo từng năm. Tuy nhiên, để gia tăng thêm giá trị xóa đói, giảm nghèo còn khó khăn hơn nhiều, cần những thay đổi tích cực hơn, giúp người dân thoát nghèo vươn lên cuộc sống đầy đủ và sung túc.

Năm 2006, Việt Nam đã tuyên bố hoàn thành "Mục tiêu phát triển Thiên niên kỷ (MDGs) về xóa nghèo", về đích trước gần 10 năm so với thời hạn (thời hạn là năm 2015). Tuy nhiên, không vì thế mà Việt Nam thỏa mãn với những thành quả đã đạt được. Công tác xóa đói giảm nghèo vẫn luôn là một nhiệm vụ trọng tâm của Đảng, Nhà nước. Không những vậy, cách thức tính toán và xác định tiêu chí về hộ nghèo luôn được thay đổi, cập nhật với tình hình thực tế, phù hợp với cách tính chung của quốc tế nhằm làm cho công tác xóa đói, giảm nghèo được đa chiều và bền vững.

Xóa đói, giảm nghèo vẫn còn nhiều gian nan - Ảnh 1.

NHỮNG CON SỐ GIẢM NGHÈO ẤN TƯỢNG

Năm 2016, tại Đại hội Đảng toàn quốc lần thứ XII, đã đánh giá công tác xóa đói, giảm nghèo có những chuyển biến tích cực, tỉ lệ hộ nghèo giảm bình quân khoảng 2%/năm, từ 14,2% cuối năm 2010 xuống dưới 4,5% năm 2015; riêng các huyện nghèo giảm khoảng 6%/năm, từ 58,3% xuống còn 28%... Bà Caitlin Wiesen, Trưởng đại diện thường trú Chương trình phát triển của Liên hợp quốc (UNDP) tại Việt Nam nhấn mạnh, quốc tế nhìn nhận rất tích cực những thành quả Việt Nam đạt được trong công cuộc xóa đói, giảm nghèo trong vài thập kỷ vừa qua.

Việt Nam luôn xác định giảm nghèo bền vững và bảo đảm an sinh xã hội là mục tiêu, nhiệm vụ quan trọng trong quá trình phát triển. Mục tiêu, nhiệm vụ này được thể hiện đậm nét trong các văn kiện của Đảng, các nghị quyết của Quốc hội, các chiến lược, kế hoạch, đề án, chương trình của Chính phủ. Đặc biệt giai đoạn kinh tế hội nhập quốc tế, để thực hiện Nghị quyết số 76/2014 của Quốc hội đẩy mạnh thực hiện mục tiêu giảm nghèo bền vững đến năm 2020, Chính phủ, Thủ tướng Chính phủ đã ban hành Kế hoạch hành động, phân công trách nhiệm cho các bộ, ngành, địa phương; xác định rõ lộ trình thực hiện. 

Chính phủ triển khai đồng bộ các nhiệm vụ, giải pháp hỗ trợ giảm nghèo thông qua các chính sách giảm nghèo, an sinh xã hội và Chương trình mục tiêu quốc gia giảm nghèo bền vững giai đoạn 2011 - 2015 và giai đoạn 2016 - 2020. Cấp ủy, chính quyền các địa phương cũng đã chủ động ban hành và tổ chức triển khai nghị quyết, chương trình hành động, kế hoạch thực hiện. Các địa phương xác định mục tiêu, chỉ tiêu giảm nghèo bền vững trong nghị quyết, kế hoạch phát triển kinh tế xã hội giai đoạn 5 năm và hàng năm. Kết quả thực hiện mục tiêu giảm nghèo theo Nghị quyết 142 ngày 12/4/2016 của Quốc hội về kế hoạch phát triển kinh tế xã hội 5 năm 2016 - 2020, hạn chế thấp nhất tình trạng tái nghèo.

Theo báo cáo của Bộ Lao động & thương binh xã hội, cuối năm 2015, tỷ lệ hộ nghèo, hộ cận nghèo là 15,10% (trong đó có 2.338.569 hộ nghèo, chiếm tỷ lệ 9,88% và 1.235.784 hộ cận nghèo, chiếm tỷ lệ 5,22%). Tại các huyện nghèo, tỷ lệ hộ nghèo, hộ cận nghèo là 63,26% (trong đó tỷ lệ hộ nghèo là 50,43%). Đến cuối năm 2019, tỷ lệ hộ nghèo cả nước còn 3,75%, bình quân trong 4 năm giảm 1,53%/năm, vượt chỉ tiêu Quốc hội giao giảm tỷ lệ hộ nghèo bình quân của cả nước từ 1-1,5%/năm. Trong 4 năm đã có 1.353.805 hộ/tổng số 2.338.569 hộ nghèo đã thoát nghèo (chiếm 58%). Ước đến cuối năm 2020, tỷ lệ hộ nghèo cả nước giảm còn khoảng 2,75%. 

Như vậy, sau 5 năm tỷ lệ hộ nghèo bình quân cả nước giảm khoảng 1,43%/năm, đạt chỉ tiêu Quốc hội giao. Tỷ lệ hộ nghèo ở các huyện nghèo giảm còn 27,85%, bình quân trong 4 năm giảm 5,65%/năm, vượt chỉ tiêu Quốc hội giao giảm bình quân 4%/năm; ước cuối năm 2020, tỷ lệ hộ nghèo bình quân các huyện nghèo còn khoảng 24%. Có 8/64 huyện nghèo thoát khỏi tình trạng đặc biệt khó khăn đạt 12,5% và 14/30 huyện nghèo hưởng cơ chế theo Nghị quyết 30a thoát khỏi tình trạng khó khăn.

THU NHẬP HỘ NGHÈO VƯỢT CHỈ TIÊU

Dự kiến đến cuối năm 2020, có khoảng 32 huyện thoát khỏi huyện nghèo, đạt chỉ tiêu đề ra. Số thôn, bản đặc biệt khó khăn vùng dân tộc và miền núi cũng đã thoát khỏi tình trạng đặc biệt khó khăn, phù hợp với mục tiêu đã đề ra của Chương trình mục tiêu quốc gia giảm nghèo bền vững giai đoạn 2016 - 2020. Về thu nhập, bình quân hộ nghèo đến cuối năm 2018 tăng 1,4 lần so với cuối năm 2015, dự kiến đến cuối năm 2020 thu nhập hộ nghèo tăng 1,6 lần, vượt chỉ tiêu đề ra là 1,5 lần.

Để thực hiện mục tiêu giảm nghèo bền vững, Quốc hội, Chính phủ rất quan tâm, ưu tiên bố trí nguồn lực đầu tư trung hạn giai đoạn 2016 – 2020. Kinh phí thực hiện các chính sách, chương trình giảm nghèo, an sinh xã hội được Chính phủ giao ổn định để các địa phương chủ động thực hiện, tạo điều kiện thuận lợi hỗ trợ người nghèo nâng cao thu nhập, tiếp cận tốt hơn các dịch vụ xã hội cơ bản như y tế, giáo dục, nhà ở, nước sạch, vệ sinh và thông tin. 

Ngân sách Trung ương bố trí cho Chương trình giai đoạn 2016 - 2020 được Thủ tướng Chính phủ phê duyệt tại Quyết định số 1722/TTg ngày 2/9/2016 là 41.449 tỷ đồng (trong đó vốn đầu tư phát triển là 29.698 tỷ đồng, vốn sự nghiệp là 11.751 tỷ đồng). Đến năm 2020, Ngân sách Trung ương đã bố trí cho Chương trình mục tiêu quốc gia giảm nghèo bền vững giai đoạn 2016¬2020 là 42.334,618 tỷ đồng/kế hoạch 41.449 tỷ đồng (đạt 101,02%). Tổng nguồn lực đã được bố trí, huy động để thực hiện chương trình (không bao gồm nguồn ngân sách nhà nước chi cho các chính sách giảm nghèo thường xuyên. 

Nguồn các tổng công ty, doanh nghiệp trực tiếp hỗ trợ các huyện nghèo 30a) trong giai đoạn 2016 - 2020 là khoảng 93.289,683 tỷ đồng. Trong đó: vốn Trung ương 42.334,618 tỷ đồng (45,3%); vốn địa phương đối ứng cho chương trình và thực hiện chính sách đặc thù của tỉnh, bao gồm cả vốn huy động từ các nguồn hợp pháp khác 10.065,605 tỷ đồng (10,8%); vốn xã hội hóa dành cho hoạt động an sinh xã hội và giảm nghèo của địa phương 22.112 (23,6%); vốn ủng hộ Quỹ "Vì người nghèo" và các hoạt động an sinh xã hội của Mặt trận tổ quốc Việt Nam các cấp 18.594,434 (19,9%); vốn viện trợ Ireland (Irish Aid) 406,746 (0,4%).

Xóa đói, giảm nghèo vẫn còn nhiều gian nan - Ảnh 2.

NGUY CƠ TÁI NGHÈO VÀ PHÁT SINH NGHÈO

Bên cạnh những kết quả đã đạt được, có thể thấy kết quả giảm nghèo chưa bền vững, tình trạng tái nghèo và phát sinh nghèo còn cao, nhất là khu vực miền núi, vùng đồng bào dân tộc, vùng thường xuyên bị thiên tai, lũ lụt. Tỉ lệ tái nghèo trong 4 năm (2016 - 2019) bình quân 4,09%/năm so với tổng số hộ thoát nghèo (giai đoạn trước tỉ lệ tái nghèo khoảng 12%/năm). Tỉ lệ hộ nghèo phát sinh tương đối lớn, trung bình giai đoạn 2016 - 2019 bằng 21,8% so với tổng số hộ thoát nghèo.

Chênh lệch giàu nghèo, điều kiện tiếp cận các dịch vụ cơ bản, tiếp cận thị trường, việc làm giữa các vùng, nhóm dân cư chưa được thu hẹp, nhất là khu vực miền núi phía Bắc và Tây Nguyên. Sự phân hóa giàu nghèo trong các tầng lớp dân cư có xu hướng gia tăng qua số liệu về chênh lệch thu nhập giữa nhóm 5 (20% dân số giàu nhất) và nhóm 1 (20% dân số nghèo nhất) năm 2014 là 9,7 lần, tăng lên 10 lần vào năm 2018. Hệ số GINI (theo thu nhập) của Việt Nam trong giai đoạn 2014 - 2018 ở mức 0,4, đây là mức bất bình đẳng trung bình so với các nước trên thế giới.

Nhiều nơi tỷ lệ hộ nghèo vẫn còn trên 50%; tỷ trọng hộ nghèo dân tộc thiểu số chiếm trên 58,53% tổng số hộ nghèo trong cả nước (cuối năm 2019). Điều này đòi hỏi cần tiếp tục phải có những giải pháp hiệu quả, phù hợp hơn để góp phần thực hiện mục tiêu giảm nghèo bền vững giai đoạn 2021 - 2025 và đến năm 2030 theo mục tiêu phát triển bền vững mà Việt Nam đã cam kết với quốc tế.

 Ngoài ra, nguồn lực đầu tư cho các địa bàn khó khăn, tỷ lệ hộ nghèo cao, vùng đồng bào dân tộc và miền núi tuy đã được ưu tiên nhưng chưa đáp ứng được yêu cầu. Việc phát triển công nghiệp dịch vụ phục vụ nông nghiệp cho các huyện nghèo chưa được chú trọng, chưa kết nối sản xuất với thị trường. Việc giải quyết đất ở, đất sản xuất cho đồng bào dân tộc thiểu số còn thấp, tiến độ giao rừng, cho thuê rừng gắn liền với giao đất lâm nghiệp và cấp giấy chứng nhận quyền sử dụng đất lâm nghiệp còn chậm. Việc rà soát, tích hợp văn bản chính sách về giảm nghèo cũng như việc chuyển đổi phương thức hỗ trợ người nghèo từ hỗ trợ "cho không" sang hỗ trợ có điều kiện, có thời hạn triển khai còn chậm. Các chính sách giảm nghèo đã được tích hợp bước đầu nhưng vẫn còn dàn trải, thiếu tính hệ thống...

Quá trình đô thị hóa và di dân tự do làm nảy sinh nhiều thách thức về việc bảo đảm cơ hội tiếp cận các dịch vụ xã hội cơ bản đối với người di cư, đặc biệt là vấn đề nhà ở, trường học và chăm sóc y tế, dinh dưỡng đối với người nghèo đô thị, người lao động ở các khu công nghiệp. Công tác tuyên truyền nâng cao nhận thức, trách nhiệm của toàn xã hội nhằm khơi dậy tinh thần tự lực vươn lên thoát nghèo và huy động nguồn lực để thực hiện mục tiêu giảm nghèo bền vững còn nhiều bất cập, chưa tạo được chuyển biến trong đội ngũ cán bộ cơ sở và người dân về những thay đổi chính sách và cách tiếp cận mới trong giảm nghèo.

Xóa đói, giảm nghèo vẫn còn nhiều gian nan - Ảnh 3.

NỖ LỰC HƠN NỮA CÁC GIẢI PHÁP ĐỒNG BỘ

Mục tiêu giảm nghèo theo Nghị quyết 5 năm (2016 - 2020) của Quốc hội cơ bản đến hết năm 2020, tỷ lệ hộ nghèo cả nước giảm xuống dưới 3% theo chuẩn nghèo tiếp cận đa chiều giai đoạn 2016 - 2020; tỷ lệ bình quân hộ nghèo ở các huyện nghèo giảm xuống dưới 26%. Quan trọng nhất là hạn chế thấp nhất tình trạng tái nghèo, phát sinh nghèo do các nguyên nhân chủ quan.

Hiện nay các cơ quan quản lý nhà nước đang tăng cường việc kiểm tra, giám sát kết quả rà soát hộ nghèo, hộ cận nghèo. Qua đó xem xét việc phối hợp liên ngành, các địa phương trong thực hiện chính sách, chương trình giảm nghèo; đồng thời tăng cường công tác truyền thông, nâng cao nhận thức trong cả hệ thống chính trị, tạo sự đồng thuận trong xã hội, tạo động lực, khích lệ và khơi dậy ý chí vươn lên thoát nghèo bền vững của chính người nghèo. 

Bên cạnh đó, tiếp tục thực hiện rà soát, đánh giá hệ thống chính sách giảm nghèo, trên cơ sở đó lồng ghép các chính sách, loại bỏ các chính sách chồng chéo, không hiệu quả. Nghèo đói là vấn đề kinh tế xã hội lớn không chỉ ở nước ta mà còn là vấn đề của toàn cầu. Trong năm 2020, do tác động nặng nề của đại dịch Covid-19, các tổ chức quốc tế cảnh báo những tiến bộ đạt được trong việc thực hiện các mục tiêu bền vững bị gián đoạn. Cuộc chiến chống đói nghèo trên thế giới bị thụt lùi một thập niên. Tổ chức Oxfam ước tính Covid-19 khiến nửa tỷ người, khoảng trên 8% dân số thế giới lâm vào cảnh nghèo đói. Điều này tất yếu ảnh hưởng đến kết quả xóa đói, giảm nghèo cũng như các giải pháp đưa ra của Việt Nam. 

Chính vì vậy, Thủ tướng Nguyễn Xuân Phúc đã kêu gọi việc "giảm nghèo trong thời gian tới là công việc của cả trí tuệ và trái tim". Mặc dù khó khăn nhưng thời gian qua Chính phủ đã cố gắng bố trí đủ ngân sách để thực hiện các chính sách giảm nghèo. Ưu tiên bố trí ngân sách nhà nước cho đầu tư phát triển cơ sở hạ tầng, kinh tế xã hội các vùng khó khăn. Ngân sách Nhà nước đảm bảo chi thường xuyên để thực hiện các chính sách hỗ trợ các đối tượng nghèo ổn định đời sống, phát triển sản xuất vươn lên thoát nghèo. Ưu tiên nguồn lực cho tín dụng chính sách xã hội, đầu tư cơ sở hạ tầng và phát triển, nâng cao chất lượng nguồn nhân lực cho vùng đồng bào dân tộc thiểu số; huyện nghèo, xã nghèo, xã biên giới, xã an toàn khu; xã, thôn, bản đặc biệt khó khăn, vùng bãi ngang ven biển, hải đảo.

Tỷ lệ hộ nghèo tập trung ở miền núi rất cao nên cần quan tâm đến những hộ đồng bào dân tộc thiểu số không có đất sản xuất, hoặc tính chuyển đổi nghề cho hộ đồng bào dân tộc thiểu số nghèo và hộ nghèo ở xã, thôn, bản đặc biệt khó khăn đang thiếu đất sản xuất. Kết hợp đào tạo nghề gắn với giải quyết việc làm, tăng thu nhập cho hộ đồng bào dân tộc thiểu số nghèo chưa được hỗ trợ đất sản xuất. Đẩy mạnh ứng dụng tiến bộ khoa học và công nghệ nhằm nâng cao giá trị sản phẩm của các ngành sản xuất, chế biến nông, lâm sản cho hộ nghèo, hộ mới thoát nghèo; chú trọng phát triển các loại cây trồng, vật nuôi là đặc sản, có hiệu quả kinh tế cao. Nâng cao chất lượng, hiệu quả phổ cập giáo dục và tỷ lệ đào tạo nghề khu vực nông thôn, đồng bào dân tộc thiểu số; phân luồng, đào tạo nghề hợp lý, hiệu quả; duy trì các chính sách hỗ trợ cho học sinh, sinh viên thuộc hộ nghèo, hộ cận nghèo. Đảm bảo an ninh trật tự gắn với thực hiện các chương trình hỗ trợ phát triển kinh tế xã hội, thực hiện mục tiêu giảm nghèo bền vững, nhất là đảm bảo an ninh - quốc phòng ở khu vực miền núi, vùng sâu, vùng xa, vùng biên giới và hải đảo. Các giải pháp thực hiện phải cố gắng đồng bộ để tăng hiệu quả xóa đói giảm nghèo.

Xóa đói, giảm nghèo vẫn còn nhiều gian nan - Ảnh 4.

HỖ TRỢ TRỌNG GÓI, GIAO QUYỀN CHO ĐỊA PHƯƠNG

Thực hiện tốt các giải pháp xóa đói giảm nghèo hàng năm là tiền đề cho công việc xóa đói, giảm ngheo giai đoạn tiếp theo. Bàn về mục tiêu giảm nghèo bền vững giai đoạn 2021-2025 nhiều đại biểu Quốc hội như bà Ma Thị Thúy (Tuyên Quang), ông Đinh Công Sỹ (Sơn La), bà Nguyễn Thị Thu Dung (Thái Bình) đều cho rằng, cần tiếp tục tích hợp ban hành các chính sách hỗ trợ giảm nghèo trong các chính sách phát triển kinh tế xã hội theo hướng hỗ trợ các điều kiện, hỗ trợ trực tiếp đối với các chính sách có ảnh hưởng lớn đến an sinh xã hội như giáo dục, y tế, còn lại các chính sách khác hỗ trợ bằng hình thức cho vay có hoàn trả. Đồng thời tiếp tục tăng mức cho vay tín dụng ưu đãi và kéo dài thời gian vay vốn với lãi suất ưu đãi cho một số loại hình sản xuất có chu kỳ sản xuất chăn nuôi dài như trồng rừng, chăn nuôi trâu, bò và các cơ sở hộ sản xuất kinh doanh ở vùng đặc biệt khó khăn, vùng nông thôn.

Ngoài ra, cần thực hiện phân cấp mạnh việc tổ chức thực hiện cho địa phương, cơ sở theo phương thức hỗ trợ trọn gói, giao quyền cho địa phương, lấy ý kiến nhân dân và tình hình thực tế để chủ động bố trí ngân sách giải quyết những nhu cầu bức xúc trên địa bàn theo mục tiêu của các chương trình đã đề ra. Cần xem xét việc lồng ghép các chương trình mục tiêu quốc gia trong giai đoạn 2021-2025. Việc lồng ghép sẽ giảm đầu mối quản lý, tăng tối đa chi cho đầu tư phát triển, hướng tới đối tượng thụ hưởng trực tiếp là người dân. 

Thiên tai xảy ra vừa qua, Chính phủ đã thực hiện hỗ trợ kịp thời cho người dân sửa chữa nhà cửa bị hư hại, hỗ trợ lương thực, thực phẩm, thuốc, không để người dân không có chỗ ở, bị thiếu đói, bệnh tật. Khẩn trương sửa chữa lại trường học, lớp học để 100% học sinh được đến trường. Tạo điều kiện cho người dân chủ động hơn, năng động hơn, có năng lực, động lực lớn hơn, được trao quyền tự quyết nhiều hơn trong việc thực hiện các mô hình giảm nghèo từ xây dựng chính sách đến tổ chức thực hiện. 

Giải quyết đói nghèo phải đi từ sản xuất kinh doanh, có việc làm mà trước hết là sản xuất nông nghiệp, dịch vụ, nhất là những chương trình mà chúng ta đã triển khai tập trung cho vùng có thu nhập thấp. Vì thế, Thủ tướng Nguyễn Xuân Phúc cho rằng cả nước cần triển khai phong trào mới: "Mỗi xã, mỗi huyện xây dựng một mô hình giảm nghèo tiêu biểu phù hợp với địa phương mình", với cách làm sáng tạo hơn nữa, giảm nghèo bền vững bắt đầu từ trẻ em, cần đặc biệt quan tâm đến nguồn vốn con người. Các địa phương có điều kiện, phát triển khá hơn nhận hỗ trợ các huyện nghèo, xã có điều kiện kinh tế xã hội đặc biệt khó khăn. 

Thủ tướng cũng đề nghị nghiên cứu trình Trung ương, Bộ Chính trị, Ban Bí thư ban hành các nghị quyết, chỉ thị về chính sách giảm nghèo, an sinh xã hội bền vững đến năm 2030, trình Quốc hội ban hành nghị quyết về tiếp tục đẩy mạnh thực hiện mục tiêu giảm nghèo bao trùm và phê duyệt chủ trương đầu tư Chương trình mục tiêu quốc gia giảm nghèo, an sinh xã hội bền vững giai đoạn 2021-2025, định hướng đến năm 2030 và tầm nhìn 2045 vì một Việt Nam không có đói nghèo.

Thủ tướng cho rằng, đầu tư hạ tầng kinh tế xã hội ở các vùng khó khăn, nhất là hạ tầng giao thông kết nối để tạo cơ hội giao thương, việc làm, đầu tư cho giáo dục và dạy nghề, tạo điều kiện thông thương là con đường căn bản để giảm nghèo bền vững, tạo điều kiện cho người nghèo tiếp cận nguồn lực để họ tự vươn lên. Dân trí, giáo dục, dạy nghề là những bài toán quan trọng để góp phần thực hiện mục tiêu quan trọng xóa đói, giảm nghèo, nhất là vùng sâu, vùng xa, vùng đồng bào dân tộc thiểu số. Hơn nữa, các giải pháp sắp tới cần phải quan tâm đưa các ứng dụng khoa học, công nghệ thành giải pháp cơ bản để nhanh chóng đạt được mục tiêu giảm nghèo ở các chương trình mục tiêu quốc gia trong giai đoạn tới. 

Bên cạnh đó, cần xem xét khả năng, nguồn lực để thực hiện các mục tiêu đặc thù, cũng như xem xét về tính đặc thù của các vùng, miền để có phương pháp tiếp cận cách giải quyết giảm nghèo cho phù hợp. Để chống nguy cơ trở thành hộ nghèo, nguy cơ tái nghèo, cận nghèo, đào tạo việc làm là giải pháp căn cơ và có hiệu quả nhất. Do đó, trong các chương trình mục tiêu quốc gia giảm nghèo và an sinh xã hội bền vững giai đoạn 2021-2025 cần chú trọng phát triển hệ thống giáo dục nghề nghiệp, nâng cao chất lượng nguồn nhân lực.

Attention
The original article is written and published on VnEconomy in Vietnamese only. To read the full article, please use the Google Translate tool below to translate the content into your preferred language.
VnEconomy is not responsible for the translation.

Google translate