Bảo hiểm xã hội Việt Nam vừa có phản hồi về ý kiến của người lao động, hỏi về trường hợp người này sinh năm 1975, giữ chức vụ trưởng phòng một cơ quan Nhà nước, có đơn xin nghỉ hưu sớm từ ngày 1/4/2025. Người lao động hỏi cách tính lương hưu và trợ cấp một lần khi nghỉ hưu theo chế độ hưu trí như thế nào?
ĐIỀU KIỆN HƯỞNG LƯƠNG HƯU
Về vấn đề này, Bảo hiểm xã hội Việt Nam cho biết điều kiện hưởng lương hưu, theo quy định tại Bộ luật Lao động năm 2019 và Nghị định số 135/2020/NĐ-CP của Chính phủ quy định về tuổi nghỉ hưu, kể từ ngày 1/1/2021, tuổi nghỉ hưu đối với người lao động làm việc trong điều kiện bình thường sẽ được điều chỉnh theo lộ trình.
Mỗi năm tăng thêm 3 tháng đối với lao động nam cho đến khi đủ 62 tuổi vào năm 2028, mỗi năm tăng thêm 4 tháng đối với lao động nữ cho đến đủ 60 tuổi vào năm 2035.
Cụ thể, tuổi nghỉ hưu của người lao động có đủ 20 năm đóng bảo hiểm xã hội trong điều kiện lao động bình thường: Năm 2021 là đủ 60 tuổi 3 tháng đối với lao động nam, và đủ 55 tuổi 4 tháng đối với lao động nữ.
Sau đó, cứ mỗi năm tăng thêm 3 tháng đối với lao động nam cho đến khi đủ 62 tuổi vào năm 2028, và mỗi năm tăng thêm 4 tháng đối với lao động nữ cho đến đủ 60 tuổi vào năm 2035.
Người lao động có thể nghỉ hưu thấp hơn không quá 5 tuổi, so với tuổi nghỉ hưu trong điều kiện lao động bình thường tại thời điểm nghỉ hưu, nếu có đủ 20 năm đóng bảo hiểm xã hội, và thuộc một trong các trường hợp dưới đây:
(i) Người lao động có từ đủ 15 năm trở lên làm nghề, công việc nặng nhọc, độc hại nguy hiểm, hoặc đặc biệt nặng nhọc, độc hại, nguy hiểm thuộc danh mục do Bộ Lao động - Thương binh và Xã hội (nay là Bộ Nội vụ) ban hành.
(ii) Người lao động có từ đủ 15 năm trở lên làm việc ở vùng có điều kiện kinh tế - xã hội đặc biệt khó khăn (bao gồm cả thời gian làm việc ở nơi có phụ cấp khu vực hệ số 0,7 trở lên trước ngày 1/1/2021).
(iii) Người lao động có tổng thời gian làm nghề, công việc nặng nhọc, độc hại, nguy hiểm, hoặc đặc biệt nặng nhọc, độc hại, nguy hiểm, và thời gian làm việc ở vùng có điều kiện kinh tế - xã hội đặc biệt khó khăn (bao gồm cả thời gian làm việc ở nơi có phụ cấp khu vực hệ số 0,7 trở lên trước ngày 1/1/2021) từ đủ 15 năm trở lên.
(iv) Người lao động bị suy giảm khả năng lao động từ 61% trở lên đến dưới 81%.
Người lao động có thể nghỉ hưu thấp hơn tối đa 10 tuổi, so với tuổi nghỉ hưu của người lao động làm việc trong điều kiện lao động bình thường, nếu có đủ 20 năm đóng bảo hiểm xã hội trở lên, và thêm một trong các điều kiện sau: Có đủ 15 năm làm công việc khai thác than trong hầm lò; Bị suy giảm khả năng lao động từ 81% trở lên.
Người lao động không bị quy định giới hạn về tuổi đời khi đã có đủ 20 năm đóng bảo hiểm xã hội, và thuộc một trong các trường hợp sau đây: Bị nhiễm HIV/AIDS do tai nạn rủi ro nghề nghiệp; Bị suy giảm khả năng lao động từ 61% trở lên, và có đủ 15 năm làm nghề hoặc công việc đặc biệt nặng nhọc, độc hại, nguy hiểm thuộc danh mục do Bộ Lao động - Thương binh và Xã hội (nay là Bộ Nội vụ) ban hành.
CÁCH TÍNH MỨC LƯƠNG HƯU HẰNG THÁNG
Theo Bảo hiểm xã hội Việt Nam, mức lương hưu hằng tháng được quy định tại Điều 56 Luật Bảo hiểm xã hội năm 2014 và Điều 7 Nghị định số 115/2015/NĐ-CP của Chính phủ quy định chi tiết một số điều của Luật Bảo hiểm xã hội về bảo hiểm xã hội bắt buộc như sau:
Mức lương hưu hằng tháng của người lao động được tính bằng tỷ lệ hưởng lương hưu hằng tháng, nhân với mức bình quân tiền lương tháng đóng bảo hiểm xã hội.
Trong đó, tỷ lệ hưởng lương hưu đối với lao động nam được tính bằng 45% mức bình quân tiền lương tháng đóng bảo hiểm xã hội, tương ứng với 20 năm đóng nếu nghỉ hưu từ năm 2022 trở đi.
Đối với lao động nữ được tính bằng 45% mức bình quân tiền lương tháng đóng bảo hiểm xã hội, tương ứng với 15 năm đóng.
Sau đó, cứ thêm mỗi năm đóng được tính thêm 2% đối với cả nam và nữ. Mức tối đa bằng 75%. Trường hợp người lao động nghỉ hưu trước tuổi quy định, cứ mỗi năm nghỉ hưu trước tuổi quy định thì giảm 2%.

Mức bình quân tiền lương tháng đóng bảo hiểm xã hội thực hiện theo quy định tại Điều 62 Luật Bảo hiểm xã hội năm 2014.
Cụ thể, người lao động thuộc đối tượng thực hiện chế độ tiền lương do Nhà nước quy định, có toàn bộ thời gian đóng bảo hiểm xã hội theo chế độ tiền lương này, thì tính bình quân tiền lương tháng của số năm đóng bảo hiểm xã hội trước khi nghỉ hưu như sau:
Tham gia bảo hiểm xã hội trước ngày 1/1/1995, thì tính bình quân của tiền lương tháng đóng của 5 năm cuối trước khi nghỉ hưu.
Tham gia trong khoảng thời gian từ ngày 1/1/1995 đến ngày 31/12/2000, thì tính bình quân của tiền lương tháng đóng của 6 năm cuối trước khi nghỉ hưu.
Tham gia trong khoảng thời gian từ ngày 1/1/2001 đến ngày 31/12/2006, thì tính bình quân của tiền lương tháng đóng của 8 năm cuối trước khi nghỉ hưu.
Tham gia trong khoảng thời gian từ ngày 1/1/2007 đến ngày 31/12/2015, thì tính bình quân của tiền lương tháng đóng của 10 năm cuối trước khi nghỉ hưu.
Tham gia từ ngày 1/1/2016 đến ngày 31/12/2019, thì tính bình quân của tiền lương tháng đóng của 15 năm cuối trước khi nghỉ hưu.
Tham gia từ ngày 1/1/2020 đến ngày 31/12/2024, thì tính bình quân của tiền lương tháng đóng của 20 năm cuối trước khi nghỉ hưu.
Tham gia từ ngày 1/1/2025 trở đi, thì tính bình quân của tiền lương tháng đóng của toàn bộ thời gian.
Người lao động vừa có thời gian đóng bảo hiểm xã hội thuộc đối tượng thực hiện chế độ tiền lương do Nhà nước quy định, vừa có thời gian đóng theo chế độ tiền lương do người sử dụng lao động quyết định, thì tính bình quân tiền lương tháng đóng chung của các thời gian.
Về trợ cấp một lần khi nghỉ hưu, Bảo hiểm xã hội Việt Nam cho biết theo quy định tại Điều 58 Luật Bảo hiểm xã hội năm 2014, người lao động có thời gian đóng bảo hiểm xã hội cao hơn số năm tương ứng với tỷ lệ hưởng lương hưu 75%, thì khi nghỉ hưu, ngoài lương hưu còn được hưởng trợ cấp một lần.
Mức trợ cấp một lần được tính theo số năm đóng bảo hiểm xã hội cao hơn số năm tương ứng với tỷ lệ hưởng lương hưu 75%, cứ mỗi năm đóng thì được tính bằng 0,5 tháng mức bình quân tiền lương tháng đóng.