Với việc thực thi EVFTA, thương mại song phương đã tăng 32%; với xuất khẩu của Việt Nam sang EU là bốn lần so với xuất khẩu của EU sang Việt Nam. Ông có thể cung cấp thông tin chi tiết về triển vọng hợp tác thương mại song phương trong những năm sắp tới, đặc biệt là trong năm 2024?
Có một triển vọng rất sáng sủa cho mối quan hệ kinh tế và thương mại giữa EU và Việt Nam.
Quan hệ thương mại, kinh tế và đầu tư giữa Việt Nam và EU đã được xây dựng trên một nền tảng rất vững chắc. EVFTA đã trở thành một phần quan trọng, nâng cao mối liên kết thương mại giữa hai nền kinh tế lên một tầm cao chưa từng có.
Trong năm 2022, xuất khẩu của EU sang Việt Nam tăng 18% và xuất khẩu của Việt Nam sang EU tăng đáng kể hơn, lên đến 33%, theo số liệu của Eurostat. Sự tăng trưởng này là sự mở rộng xuất khẩu song phương mạnh mẽ nhất giữa Việt Nam và bất kỳ đối tác thương mại nào khác trong năm.
Thực tế, thương mại song phương đã tăng mạnh từ khi EVFTA được thực thi, chỉ giảm nhẹ trong năm 2020 dưới ảnh hưởng tiêu cực của đại dịch Covid-19. Để có dự đoán chính xác về xu hướng trong những năm tới, quan trọng là phải phân tích sâu mô hình thương mại của những năm gần đây.
Trước khi EVFTA được thực thi, tốc độ tăng trưởng trung bình hàng năm của xuất khẩu của Việt Nam sang EU là 5-7% và của xuất khẩu của EU sang Việt Nam là 3-5%. Trừ năm đại dịch Covid-19 năm 2020, quan hệ thương mại song phương giữa EU và Việt Nam đã tăng mạnh ở mức hai chữ số.
Trong năm 2021, xuất khẩu của EU sang Việt Nam mở rộng 21% trong khi nhập khẩu từ Việt Nam tăng 12%. Xu hướng này tiếp tục trong năm 2022 với xuất khẩu của EU tăng 18% và xuất khẩu của Việt Nam tăng 33%.
Trong năm 5 năm qua (2017 - 2022, tức là hai năm trước khi EVFTA được thực thi và ba năm sau khi thực thi), đã chứng kiến mức tăng trưởng hàng năm ước tính 5% cho xuất khẩu của EU và gần 11% cho xuất khẩu của Việt Nam, gần gấp đôi so với tốc độ tăng trưởng hàng năm trung bình bình thường trong trường hợp không có FTA.
Tôi đưa ra dữ liệu của giai đoạn 5 năm này để chỉ ra cách EVFTA đã làm giảm nhẹ tác động tiêu cực của khủng hoảng và cải thiện quan hệ thương mại của chúng ta.
Do tốc độ tăng trưởng thương mại song phương của chúng ta đã tăng nhanh trong những năm qua, chúng ta có thể mong đợi một số chậm lại của tốc độ tăng trưởng đó. Chúng tôi đã theo dõi chặt chẽ các luồng thương mại trong năm 2023 và đã ghi nhận một xu hướng giảm trong mô hình thương mại.
Từ tháng 1 - tháng 9 năm 2023, thương mại hai chiều giảm -7% so với cùng kỳ năm trước (43,7 tỷ euro theo Eurostat). Xuất khẩu của Việt Nam giảm -6,8% (ước tính 35,3 tỷ euro) trong khi xuất khẩu của EU giảm -8,2% (ước tính 8,5 tỷ euro).
Các con số trên chỉ ra sự điều chỉnh của mô hình thương mại của mối quan hệ thương mại song phương trong bối cảnh một tình hình kinh tế toàn cầu khó khăn. Tôi tin rằng sự điều chỉnh của tốc độ tăng trưởng có thể tiếp tục trong năm 2024 trước khi trở nên ổn định và phục hồi mạnh mẽ trở lại vào năm 2025 và các năm tiếp theo.
Làm thế nào Việt Nam có thể hưởng lợi từ chiến lược Global Gateway (Cửa ngõ toàn cầu) của Liên minh châu Âu để đầu tư vào các dự án hạ tầng và thiết lập mối quan hệ kinh tế để đạt được sự phát triển bền vững?
Global Gateway là một đề xuất tích cực từ Liên minh châu Âu đến các quốc gia đối tác nhằm hỗ trợ cho việc tự chủ chiến lược của họ. Bằng cách tăng cường đầu tư địa lý chất lượng cao, nó nhằm mục tiêu thúc đẩy các lợi ích của châu Âu và định vị Liên minh châu Âu và 27 quốc gia thành viên của nó một cách nổi bật hơn trong một thế giới đang chứng kiến cuộc cạnh tranh địa chính trị thông qua việc tăng cường các mối quan hệ song phương và khu vực.
Dưới phương thức làm việc "Team Europe", Global Gateway nhằm mục tiêu huy động 300 tỷ Euro để đầu tư vào sự phát triển bền vững trong các lĩnh vực như giao thông, giáo dục, nghiên cứu, sức khỏe, biến đổi kỹ thuật số và xanh.
Trong bối cảnh này, đề xuất từ Liên minh châu Âu có tiềm năng lớn đối với Việt Nam, bằng cách tăng cường các đầu tư bền vững chất lượng cao để củng cố các mối quan hệ song phương và định vị Liên minh châu Âu như một đối tác quan trọng của Việt Nam, thúc đẩy sự cạnh tranh và an ninh của chuỗi cung ứng toàn cầu.
Để tận dụng nguồn tài trợ từ Global Gateway, Việt Nam có thể tập trung vào việc phát triển hạ tầng bền vững, như các dự án năng lượng tái tạo, di chuyển bền vững, quy hoạch đô thị tích hợp, kế hoạch và đầu tư phản ứng với biến đổi khí hậu. Điều này không chỉ mang lại lợi ích cho môi trường và mục tiêu về biến đổi khí hậu, mà còn góp phần vào sự chống chọi kéo dài của nền kinh tế Việt Nam.
Hơn nữa, cơ chế tài trợ này có thể đóng góp vào sự phát triển bền vững của Việt Nam bằng cách khuyến khích sự chuyển đổi sang nền kinh tế ít carbon, với các công nghệ xanh hơn, chấp nhận các giải pháp dựa trên thiên nhiên và các thực tiễn bền vững.
Một trong những ưu tiên chính của Liên minh châu Âu là sự bền vững, và nó nhằm mục tiêu đầu tư vào các dự án tuân thủ nguyên tắc bảo vệ môi trường. Bằng cách hợp tác với các công ty châu Âu, Việt Nam có thể hưởng lợi từ việc chuyển giao công nghệ, chia sẻ kiến thức và tiếp cận các thị trường mới.
Điều này có thể thu hút đầu tư trực tiếp nước ngoài, kích thích sự đổi mới và khuyến khích sự khởi nghiệp tại Việt Nam, đồng thời góp phần vào sự phát triển bền vững của đất nước.
Quỹ châu Âu dành cho Phát triển Bền vững+ (EFSD+) là công cụ tài chính chính để huy động đầu tư dưới Global Gateway. Công cụ này bao gồm một công cụ tài trợ sáng tạo giúp tạo ra đầu tư thông qua khả năng bảo lãnh và kết hợp các khoản tài trợ. EFSD+ đã hoạt động khá tích cực tại Việt Nam trong các lĩnh vực Chống biến đổi khí hậu và Chuyển đổi năng lượng.
Chúng tôi mong đợi sẽ tiếp tục thúc đẩy các dự án đầu tư, đặc biệt là trong việc tăng tốc vào năng lượng sạch và tái tạo, kết nối, xây dựng các thành phố chống chịu và bền vững về khí hậu.
Liên minh châu Âu là một trong những nền kinh tế lớn nhất thế giới, và mỗi quốc gia thành viên đều có mạng lưới kinh doanh và mối liên kết thương mại rộng lớn. Ngoài hỗ trợ tài chính, cơ chế tài trợ Global Gateway của Liên minh châu Âu cũng có thể tạo điều kiện cho việc thiết lập mối quan hệ kinh tế giữa Việt Nam và các quốc gia châu Âu khác.
Trong một cuộc chia sẻ với báo chí Việt Nam gần đây, ông đã đề cập đến trách nhiệm của mình trong việc hình thành chính sách tổng thể cho Horizon Europe, chương trình trọng tâm của Liên minh châu Âu nhằm tạo điều kiện thúc đẩy hợp tác và hiệu quả của nghiên cứu và đổi mới sáng tạo trong phát triển, hỗ trợ và triển khai các chính sách của EU, lan tỏa sâu rộng tri thức khoa học và các công nghệ tiên tiến. Ông có thể chia sẻ cụ thể hơn về cách mà Liên minh châu Âu dự định hỗ trợ Việt Nam thông qua chương trình này?
Chương trình Horizon Europe là một công cụ chính để thực hiện chiến lược hợp tác quốc tế của Liên minh châu Âu, được gọi là Tiếp cận Toàn cầu đối với Nghiên cứu và Đổi mới (Global Approach to Research and Innovation), định vị Liên minh châu Âu là một nhà lãnh đạo trong việc hỗ trợ các đối tác toàn cầu trong lĩnh vực nghiên cứu và đổi mới.
Thông qua Horizon Europe, các nhà nghiên cứu từ khắp châu Âu hợp tác chặt chẽ, bao gồm cả với các nhà nghiên cứu từ các quốc gia thứ ba như Việt Nam, để đưa ra các giải pháp sáng tạo cho các thách thức về môi trường xanh, kỹ thuật số, sức khỏe và đổi mới.
Đến nay, các cơ sở nghiên cứu Việt Nam đã nhận được 9 dự án Horizon Europe trị giá tổng cộng 800.000 Euro để hợp tác với đối tác châu Âu. Và chúng tôi đang làm việc với các đối tác Việt Nam của chúng tôi để tạo ra cơ hội cho hợp tác nghiên cứu dưới chương trình cờ vua này.
Có một số lĩnh vực chủ đề mà Liên minh châu Âu muốn khuyến khích sự tham gia của Việt Nam trong những năm tới bao gồm hợp tác nghiên cứu về nước, kinh tế vòng tròn và kinh tế sinh học.
Cam kết của chúng tôi được thể hiện qua các hành động cụ thể tại Việt Nam. Chúng tôi đã tổ chức cùng Bộ Khoa học và Công nghệ tạo điều kiện thuận lợi cho các nhà nghiên cứu và cơ sở nghiên cứu Việt Nam để kết nối, học hỏi và trao đổi kinh nghiệm dưới chương trình EURAXESS của chúng tôi.
Có thể kể tên một số sự kiện như: hội nghị lần đầu tiên của Cộng đồng Khoa học Việt Nam-EU (Tháng 5 năm 2023); Hội thảo cho các nhà nghiên cứu Việt Nam về cách viết đề xuất nghiên cứu thành công dưới chương trình 'Horizon Europe' (tháng 10 năm 2023); Ngày Nghiên cứu và Đổi mới EU-Việt Nam, quảng bá hợp tác khoa học giữa EU và các quốc gia thành viên đến sự đổi mới tại Việt Nam (Tháng 11 năm 2023)
Chúng tôi hy vọng rằng các khung pháp lý của Việt Nam cũng sẽ được phát triển để tạo điều kiện thuận lợi để thu hút đầu tư và hợp tác từ châu Âu, đặc biệt trong các lĩnh vực khoa học, công nghệ và đổi mới, để mang kiến thức chuyên môn cao từ Liên minh châu Âu đến đất nước này.
Năm 2025 sẽ đánh dấu kỷ niệm 35 năm quan hệ đối tác toàn diện và hợp tác giữa Việt Nam và Liên minh châu Âu. Ông có thể chia sẻ ý nghĩa của cột mốc này đối với mối quan hệ song phương, và kế hoạch của Phái đoàn Liên minh châu Âu tại Việt Nam để kỷ niệm sự kiện này không?
Kể từ khi thiết lập quan hệ ngoại giao vào tháng 10 năm 1990, Việt Nam đã trở thành một trong những đối tác chính của Liên minh châu Âu trong khu vực, với số lượng thỏa thuận cao nhất so với bất kỳ quốc gia nào ở Đông Nam Á, bao gồm EVFTA và JETP, như đã đề cập trước đó. Liên minh châu Âu và Việt Nam đã thiết lập hợp tác trong các lĩnh vực bao gồm các vấn đề chính trị, hòa bình và an ninh, thách thức toàn cầu (như biến đổi khí hậu), thương mại và phát triển.
Năm 2012, việc ký kết Hiệp định khung về đối tác và hợp tác toàn diện giữa EU và Việt Nam (PCA) đánh dấu cam kết của Liên minh châu Âu trong việc tăng cường và mở rộng phạm vi của mối quan hệ đối tác có lợi cho cả hai bên với Việt Nam. PCA, có hiệu lực từ năm 2016, đã tiếp tục mở rộng phạm vi hợp tác EU-Việt Nam trong các lĩnh vực như thương mại, môi trường, năng lượng, khoa học và công nghệ, quản trị tốt, nhân quyền, cũng như du lịch, văn hóa, di cư và cuộc chiến chống tham nhũng và tội phạm tổ chức.
Kể từ khi công bố Chiến lược Ấn Độ Dương - Thái Bình Dương của EU vào năm 2021, Việt Nam đã được xem là một đối tác quan trọng trong khu vực này. Nhìn vào tương lai đến năm 2025 và xa hơn, tôi có thể nói rằng châu Á, và thậm chí là Đông Nam Á, là nơi mà thế kỷ tiếp theo được "thiết kế".
Trong tất cả các trụ cột của hợp tác với khu vực này, Việt Nam đóng vai trò rất quan trọng. Chúng tôi rất mong đợi kỷ niệm cột mốc 35 năm quan hệ ngoại giao với các đối tác của chúng tôi tại Việt Nam qua các lĩnh vực khác nhau vào năm 2025.