Tháng 9/2020, hơn 126 tấn gạo thơm của Lộc Trời đã chính thức có mặt tại châu Âu theo Hiệp định thương mại tự do Việt Nam - EU (EVFTA). Đây là lô hàng đầu tiên được hưởng thuế suất 0% kể từ khi hiệp định EVFTA được thực thi. Lộc Trời cũng là đơn vị đầu tiên xuất khẩu gạo sang thị trường châu Âu.
Tháng 9/2022, thương hiệu "Cơm Việt Nam Rice" của gạo Lộc Trời đã chính thức có mặt tại kệ hàng của hệ thống siêu thị E.Leclerc của Pháp. Đây là hệ thống siêu thị lớn nhất Pháp hiện nay tính theo thị phần, với gần 600 đại siêu thị và hơn 100 siêu thị trên khắp nước Pháp.
Tại hội nghị “Tổng kết 2 năm thực thi HIệp định thương mại tự do Việt Nam – EU (EVFTA): Những thành quả đã đạt được, những vấn đề còn tồn tại và giải pháp tận dụng hiệu quả”, ngày 27/12, ông Nguyễn Văn Hiếu, Giám đốc kinh doanh xuất khẩu, Tập đoàn Lộc Trời thừa nhận, EVFTA có hiệu lực đã tạo lợi thế gia tăng cạnh tranh, cũng như kim ngạch xuất khẩu cho gạo Lộc Trời sang thị trường EU.
Sản lượng xuất khẩu của Lộc Trời tăng dần theo các năm. Năm 2018, Lộc Trời chỉ xuất khẩu khoảng 2.200 tấn gạo sang EU, đến 2019 đã tăng lên 8 ngàn tấn, 2020 là 11 ngàn tấn, đến 2021 là 12 ngàn tấn, ước tính năm 2022 đạt khoảng 24-25 ngàn tấn.
EVFTA có hiệu lực với Việt Nam và Liên minh châu Âu từ ngày 01/8/2020. Theo Thứ trưởng Bộ Công Thương Trần Quốc Khánh, đây là cột mốc quan trọng đối với hoạt động xuất nhập khẩu của Việt Nam bởi lẽ sau gần 10 năm nghiên cứu khả thi, đàm phán, ký kết và phê chuẩn, lần đầu tiên trao đổi thương mại giữa Việt Nam với một thị trường truyền thống quan trọng như EU được tiến hành dựa trên cơ sở là một hiệp định thương mại tự do (FTA) thế hệ mới với cam kết sâu rộng trong nhiều lĩnh vực, đặc biệt là xóa bỏ thuế quan, tự do hóa hoạt động dịch vụ và đầu tư…
Các cam kết này được xây dựng theo kết cấu cân bằng về quyền lợi và nghĩa vụ cho cả EU và Việt Nam và vì vậy, được kỳ vọng sẽ tạo sức bật mạnh mẽ cho quan hệ thương mại song phương.
Thực tế 2 năm triển khai EVFTA cho thấy kỳ vọng về sự tăng trưởng cho hoạt động xuất nhập khẩu, nhất là xuất khẩu sang EU đã trở thành hiện thực.
Mặc dù EVFTA được thực thi vào thời điểm đại dịch Covid-19 diễn ra phức tạp không chỉ ở Việt Nam mà còn ở EU và trên toàn thế giới, nhưng trao đổi thương mại hai chiều nói chung và xuất khẩu sang EU nói riêng vẫn tăng trưởng ấn tượng.
Trong năm đầu thực thi EVFTA, trao đổi thương mại song phương đạt 54,9 tỷ USD, tăng 12,1% so với giai đoạn cùng kỳ, trong đó xuất khẩu đạt 34,5 tỷ USD, tăng 11,3% và sang năm thứ hai sang năm thứ hai đạt 61,4 tỷ USD, tăng gần 11,9%, trong đó xuất khẩu đạt 45 tỷ USD, tăng 17%.
Riêng trong 11 tháng năm 2022, kim ngạch xuất nhập khẩu hai chiều đạt 57 tỷ USD, tăng 14% so với cùng kỳ, trong đó xuất khẩu đạt 43,5 tỷ USD, tăng 21%. Đáng chú ý, nhiều mặt hàng xuất khẩu chủ lực của Việt Nam đều ghi nhận mức tăng trưởng rất tích cực như dệt may (tăng 24%), giày dép (tăng 19%), thủy sản (tăng 41%)…
Một điểm sáng nữa trong hoạt động xuất khẩu sang EU là tỷ lệ tận dụng ưu đãi từ EVFTA. Năm 2021, kim ngạch hàng hóa xuất khẩu sử dụng mẫu C/O Euro.1 đạt khoảng 8,1 tỷ USD, chiếm khoảng 20,2% tổng kim ngạch xuất khẩu hàng hóa sang EU, tăng 244% so với cùng kỳ năm trước. Trong 10 tháng năm 2022, tỷ lệ tận dụng ưu đãi là 25,1%, tăng hơn 30% so với cùng kỳ năm 2021.
“Những kết quả tích cực nói trên cho thấy các doanh nghiệp Việt Nam đã tận dụng tương đối hiệu quả các cơ hội từ EVFTA”, ông Khánh nhấn mạnh.
Theo khảo sát của Liên đoàn Thương mại và Công nghiệp Việt Nam (VCCI), có 4/10 doanh nghiệp Việt Nam đã từng hưởng lợi từ EVFTA. Điều đó cho thấy những nỗ lực không mệt mỏi của các cơ quan quản lý ở cấp trung ương và địa phương, các hiệp hội và cộng đồng doanh nghiệp trong suốt thời gian qua đã đơm hoa kết trái.
Những nỗ lực này cần tiếp tục được thúc đẩy mạnh mẽ hơn nữa trong thời gian tới để tận dụng hiệu quả hơn nữa các cơ hội từ EVFTA bởi lẽ, cần thẳng thắn nhìn nhận rằng dù chúng ta đã đạt được những thành công kể trên nhưng mới chỉ là bước đầu.
Dư địa và cơ hội từ thị trường EU còn rất rộng lớn, các doanh nghiệp Việt Nam vẫn gặp nhiều khó khăn và vướng mắc khi tiếp cận thị trường này, cả về lý do chủ quan và khách quan. Thương hiệu Việt Nam chưa được xây dựng hoặc chưa được biết đến nhiều tại các nước châu Âu, giá trị và lợi ích mà các doanh nghiệp Việt Nam thu về còn chưa tương xứng với tiềm năng.