Theo Bộ Tài nguyên và Môi trường, những ý kiến của một số doanh nghiệp là dựa trên bản Dự thảo Nghị định tại buổi làm việc ngày 30/8/2021, chưa phải là bản mới nhất đã tiếp thu, hoàn thiện.
GIẢM 34% THỦ TỤC HÀNH CHÍNH, TÍCH 7 LOẠI GIẤY PHÉP VÀO 1
Bộ Tài nguyên và Môi trường cho biết, Dự thảo Nghị định đã bám sát, cụ thể hóa chủ trương cải cách thủ tục hành chính theo quy định của Luật BVMT 2020; trong đó, đã giảm 18 thủ tục so với quy định hiện hành (giảm 34%); tích hợp 7 loại giấy phép, xác nhận gồm: Giấy xác nhận hoàn thành công trình bảo vệ môi trường, Giấy xác nhận đủ điều kiện về bảo vệ môi trường trong nhập khẩu phế liệu làm nguyên liệu sản xuất, Giấy phép xả khí thải công nghiệp, Giấy phép xử lý chất thải nguy hại, Giấy phép xả nước thải vào nguồn nước, Giấy phép xả nước thải vào công trình thuỷ lợi, Sổ đăng ký chủ nguồn thải chất thải nguy hại vào 1 Giấy phép môi trường.
Như vậy, nếu như trước đây thay vì phải thực hiện nhiều giấy phép đơn lẻ thì theo Dự thảo Nghị định, doanh nghiệp chỉ cần thực hiện 1 thủ tục là đề nghị cấp Giấy phép môi trường.
Thay vì phải thực hiện nhiều giấy phép đơn lẻ như trước đây thì theo Dự thảo Nghị định, doanh nghiệp chỉ cần thực hiện 1 thủ tục là đề nghị cấp Giấy phép môi trường.
Một số hiệp hội cho rằng trước đây, chỉ có các dự án gây ô nhiễm đến môi trường (nhóm I) mới phải làm đánh giá tác động môi trường (ĐTM) và xin Giấy phép môi trường, nhưng với quy định mới thì các dự án và nhà máy nhóm I và nhóm II kể cả đã hoạt động cũng phải làm ĐTM và xin giấy phép môi trường là không có cơ sở.
Về vấn đề này, Bộ Tài nguyên và Môi trường thông tin, Khoản 1 Điều 30 Luật Bảo vệ môi trường quy định đối tượng phải thực hiện đánh giá tác động môi trường là dự án nhóm I và nhóm II có yếu tố nhạy cảm về môi trường như xả thải vào nguồn nước cấp sinh hoạt, đầu tư trong khu bảo tồn thiên nhiên, rừng, di tích lịch sử văn hóa….
Bên cạnh đó, Điều 39 của Luật quy định các đối tượng phải có Giấy phép môi trường. Thứ nhất là Dự án đầu tư nhóm I, nhóm II và nhóm III có phát sinh nước thải, bụi, khí thải xả ra môi trường phải được xử lý hoặc phát sinh chất thải nguy hại phải được quản lý theo quy định về quản lý chất thải khi đi vào vận hành chính thức. Thứ 2 là dự án đầu tư, cơ sở, khu sản xuất, kinh doanh dịch vụ tập trung, cụm công nghiệp hoạt động trước ngày Luật này có hiệu lực thi hành có tiêu chí về môi trường như đối tượng quy định tại khoản 1 Điều này.”.
Ngoài ra, Dự thảo Nghị định mới (cập nhật đến ngày 16/9/2021 và gửi Bộ Tư pháp thẩm định) đã tiếp thu nhiều ý kiến của các hiệp hội, doanh nghiệp theo hướng đơn giản hóa nhiều quy định về hồ sơ, trình tự đề nghị cấp giấy phép môi trường, bỏ trình tự về thông báo việc nộp phí thẩm định cấp giấy phép môi trường; đơn giản hóa quy trình rà soát tính hợp lệ của hồ sơ theo hướng chỉ thực hiện 1 lần (theo Dự thảo cũ thì thực hiện 2 lần khi tiếp nhận hồ sơ và khi thành lập đoàn kiểm tra). Quy trình cấp giấy phép môi trường cũng được quy định đơn giản hóa theo tính chất của dự án…
Ý kiến cho rằng phần lớn doanh nghiệp phải trải qua 2 lần thẩm định và 2 lần kiểm tra thực địa (khi thẩm định đánh giá tác động môi trường và khi thẩm định, cấp giấy phép môi trường) là không phản ánh đúng nội dung của Luật cũng như quy định chi tiết nội dung này trong Dự thảo Nghị định.
Theo quy định tại khoản 4 Điều 34 của Luật, trong trường hợp cần thiết cơ quan thẩm định báo cáo đánh giá tác động môi trường mới tổ chức khảo sát thực tế khu vực dự kiến triển khai dự án. Đây không phải là hoạt động kiểm tra. Đối với việc cấp giấy phép môi trường, Dự thảo Nghị định cũng chỉ quy định trong trường hợp cần thiết với các dự án thuộc nhóm I, nhóm II, cơ quan cấp giấy mới thành lập đoàn kiểm tra.
LÀM RÕ CÁC QUY ĐỊNH VỀ QUAN TRẮC, TRÁCH NHIỆM TÁI CHẾ
Dự thảo Nghị định mới gửi Bộ Tư pháp thẩm định cũng đã được tiếp thu, chỉnh lý theo nhiều ý kiến góp ý của các hiệp hội, doanh nghiệp. Theo đó, đã không quy định mức xả thải càng lớn thì phải thực hiện tần suất quan trắc định kỳ càng nhiều (6 hoặc 12 lần/năm). Thay vào đó, quy định tần suất quan trắc thực hiện như quy định hiện hành nhưng chỉ áp dụng đối với nguồn nước thải có lưu lượng xả thải lớn (trên 200 m3/ngày đối với loại hình gây ô nhiễm và trên 500 m3/ngày đối với loại hình khác) và nguồn khí thải có lưu lượng xả thải lớn (trên 50.000 m3/giờ…).
Tiếp thu ý kiến góp ý, hỗ trợ các doanh nghiệp vượt qua đại dịch Covid-19 và chỉnh lý theo hướng lùi thời gian phải hoàn thành lắp đặt hệ thống quan trắc tự động, liên tục đối với tất cả các trường hợp đến hết ngày 31/12/2024.
Đặc biệt, với các dự án, cơ sở thực hiện tốt công tác bảo vệ môi trường trong 3 năm liên tiếp với kết quả quan trắc chất thải đạt QCVN và kết quả thanh tra, kiểm tra không vi phạm hành vi xả thải vượt QCVN thì được miễn thực hiện quan trắc định kỳ trong thời hạn của giấy phép môi trường.
Dự thảo cũng đã tiếp thu ý kiến góp ý, hỗ trợ các doanh nghiệp vượt qua đại dịch Covid-19 và chỉnh lý theo hướng lùi thời gian phải hoàn thành lắp đặt hệ thống quan trắc tự động, liên tục đối với tất cả các trường hợp đến hết ngày 31/12/2024.
Đối với các trường hợp đã lắp đặt hệ thống quan trắc tự động, liên tục theo quy định thì được miễn thực hiện quan trắc định kỳ trong thời gian này. Từ ngày 01/01/2025, dự án, cơ sở đã lắp đặt hệ thống quan trắc tự động, liên tục với các thông số ô nhiễm đặc trưng của nguồn thải thì được miễn thực hiện quan trắc chất thải định kỳ.
Theo lộ trình Chính phủ quy định và với đặc trưng riêng của các thiết bị xả, bụi khí thải, trước mắt yêu cầu các dự án, cơ sở có phát sinh bụi, khí thải với lưu lượng rất lớn (trên 100.000m3/giờ) thực hiện quan trắc tự động, liên tục; các trường hợp xả bụi, khí thải lớn (từ 50.000m3/giờ đến dưới 100.000m3/giờ) nếu thực hiện lắp đặt hệ thống quan trắc, tự động liên tục thì được miễn thực hiện quan trắc định kỳ.
Liên quan đến quy định các cơ sở chế biến thủy sản thuộc Mục III danh mục loại hình sản xuất, kinh doanh, dịch vụ có nguy cơ gây ô nhiễm môi trường, Bộ này nhấn mạnh, đây không phải là quy định mới của Dự thảo Nghị định mà đã được kế thừa quy định của Nghị định số 40/2019/NĐ-CP của Chính phủ và đã được triển khai thực hiện ổn định.
Quy định này xuất phát từ lý do đặc thù của loại hình chế biến thủy sản thường phát sinh nước thải có hàm lượng chất ô nhiễm hữu cơ rất cao, lưu lượng xả thải lớn, vị trí sản xuất thường nằm ở khu vực ven sông, ven biển và nơi có nhiều cư dân sinh sống, nước thải có nguy cơ ảnh hưởng đến môi trường…nên các quy chuẩn, tiêu chuẩn kiểm soát chất lượng nước cấp ở Việt Nam cũng như thế giới đều kiểm soát chặt chẽ các thông số chất ô nhiễm liên quan đến Nitơ.
Ngoài ra, các cơ sở chế biến thủy sản thường phát sinh mùi hôi, khó xử lý và kiểm soát gây ảnh hưởng đến môi trường không khí xung quanh. Do đó, việc quy định loại hình này thuộc nhóm có nguy cơ gây ô nhiễm môi trường để có sự kiểm soát chặt chẽ hơn là cần thiết, phù hợp với các quy định của quốc tế; qua đó sẽ tạo thuận lợi cho các sản phẩm chế biến thủy sản của Việt Nam có thể đáp ứng được các yêu cầu về bảo vệ môi trường khi tham gia vào thị trường thế giới. Tuy nhiên, loại hình này cũng chỉ được xếp vào mục III là nhóm có nguy cơ thấp nhất so với các loại hình thuộc mục I và mục II.
Bàn về trách nhiệm tái chế, xử lý bao bì, sản phẩm của nhà sản xuất, nhập khẩu, Bộ Tài nguyên và Môi trường cho rằng, các ý kiến cho rằng Dự thảo quy định tỷ lệ tái chế bắt buộc áp dụng ngay ở mức 80-90% là phản ánh chưa đúng nội dung quy định này, có sự hiểu nhầm với tỷ lệ thu hồi tối thiểu của nguyên liệu, vật liệu trong bao bì, sản phẩm. Dự thảo Nghị định hiện nay không quy định cụ thể tỷ lệ tái chế cho từng sản phẩm, bao bì mà chỉ quy định công thức tham chiếu và quy trình xác định tỷ lệ tái chế bắt buộc cho từng giai đoạn. Việc xác định tỷ lệ tái chế cụ thể sẽ do Hội đồng EPR quốc gia thảo luận, quyết định trên cơ sở công thức tính tỷ lệ tái chế tham chiếu, mục tiêu tái chế quốc gia và tình hình từng giai đoạn…
Theo công thức tính tỷ lệ tái chế tham chiếu trong Dự thảo Nghị định thì cao nhất dự kiến là bao bì nhôm, chai PET ở mức 22,5% và thấp nhất là phương tiện giao thông ở mức 1,8%. Dự thảo Nghị định quy định các nguyên, vật liệu phải thu hồi được tối thiểu 50%, không phải là tỷ lệ tái chế bắt buộc như đã nêu.
Đối với đóng góp tài chính để hỗ trợ tái chế, đây là nội dung được quy định tại Điều 54 Luật Bảo vệ môi trường, không phải là khoản thuế, phí hay lệ phí theo quy định của pháp luật về thuế, phí, lệ phí…