Cũng theo số liệu thống kê của Bảo hiểm xã hội Việt Nam, trong giai đoạn 2016-2022, cả nước có 4,8 triệu người lao động đề nghị và được giải quyết hưởng bảo hiểm xã hội một lần.
Đáng chú ý, khảo sát tại Hà Nội cho kết quả, tình trạng nhận bảo hiểm xã hội một lần diễn ra rất ít, giai đoạn 2016-2022 chỉ có 196.000 người nhận bảo hiểm xã hội một lần, sau đó có 60%, tương đương 120.000 người quay trở lại tiếp tục đóng bảo hiểm xã hội để hưởng hưu.
Như vậy, thực tế số người hưởng bảo hiểm xã hội một lần, không quay trở lại là hơn 3,5 triệu người, bình quân mỗi năm có hơn 591.000 người hưởng bảo hiểm xã hội một lần, số lượng năm sau luôn cao hơn năm trước với tốc độ tăng trung bình mỗi năm khoảng 12,3%.
Cũng theo số liệu thống kê cho thấy, giai đoạn 2016-2022, tổng số người tham gia bảo hiểm xã hội tăng mới là trên 5,2 triệu người, trong đó số người hưởng bảo hiểm xã hội một lần chưa quay trở lại tham gia bảo hiểm xã hội là hơn 3,5 triệu người (tương đương tỷ lệ 1,5 người tham gia mới thì có 1 người hưởng bảo hiểm xã hội một lần).
Tuy nhiên, không phải toàn bộ số người lao động hưởng bảo hiểm xã hội một lần trong giai đoạn 2016 -2022 ra khỏi hệ thống bảo hiểm xã hội, mà đã có gần 1,3 triệu người đã quay trở lại đóng, chiếm tỷ lệ khoảng 26% số người hưởng giai đoạn này.
Như vậy, có thể thấy người lao động hưởng bảo hiểm xã hội một lần khi trẻ tuổi nên độ tuổi này họ vẫn có nhu cầu làm việc và tiếp tục được tuyển dụng làm việc có đóng bảo hiểm xã hội.
Số lượng người lao động hưởng bảo hiểm xã hội một lần trong giai đoạn 2016-2022 tập trung chủ yếu ở đối tượng đóng bảo hiểm xã hội do người sử dụng lao động quyết định (ngoài Nhà nước) với tổng số 2.899.200 người, chiếm 90,74% tổng số người hưởng bảo hiểm xã hội một lần. Sau đó là đối tượng đóng bảo hiểm xã hội theo chế độ tiền lương do Nhà nước quy định với 257.002 người, và thấp nhất là đối tượng tự nguyện với 38.856 người.
Do tính chất công việc khu vực doanh nghiệp tư nhân và doanh nghiệp có vốn đầu tư nước ngoài thường không ổn định, chịu áp lực về công việc, người lao động có tâm lý “nhảy việc”, nên khi nghỉ việc, trong thời gian tìm kiếm việc làm mới phù hợp hơn thì muốn hưởng bảo hiểm xã hội một lần.
Xét theo địa lý thì khu vực Đông Nam Bộ và Đồng Bằng Sông Cửu Long có số lượng người giải quyết hưởng bảo hiểm xã hội một lần đông nhất cả nước. Tại 2 khu vực này chiếm gần 60% tổng số người hưởng bảo hiểm xã hội một lần.
Đây là những khu vực tập trung nhiều lao động phổ thông, tuổi đời trẻ làm việc tại các khu công nghiệp nên tần suất thay đổi công việc nhanh dẫn đến hưởng bảo hiểm xã hội cao so với các khu vực khác trên cả nước.
Số người hưởng bảo hiểm xã hội một lần trong giai đoạn 2016-2022 hầu hết là những lao động có thời gian tham gia bảo hiểm xã hội ngắn; hầu hết là dưới 10 năm; cụ thể dưới 5 năm chiếm đến 66,6% số lượt người đề nghị hưởng, từ 5 năm đến dưới 10 năm chiếm 23,8%.
Để hạn chế tình trạng người lao động không nhận bảo hiểm xã hội một lần, Bộ Lao động – Thương binh và Xã hội đang đề xuất nhiều giải pháp cả trực tiếp lẫn gián tiếp.
Trong đó, giải pháp trực tiếp là sửa đổi quy định về hưởng bảo hiểm xã hội một lần trong dự thảo Luật Bảo hiểm xã hội (sửa đổi) theo hai phương án. Ngoài phương án giữ như quy định hiện hành, cơ quan này đề xuất người lao động được giải quyết một phần nhưng tối đa không quá 50% tổng thời gian đã đóng vào quỹ hưu trí và tử tuất.
Thời gian đóng bảo hiểm xã hội còn lại được bảo lưu để người lao động hưởng chế độ bảo hiểm xã hội khi đủ tuổi nghỉ hưu, khi đó người lao động có 4 lựa chọn: Nếu đóng tiếp thì cộng nối để hưởng lương hưu nếu đủ điều kiện; chưa đủ thời gian đóng thì được lựa chọn đóng một lần cho thời gian còn thiếu để hưởng lương hưu; hưởng trợ cấp hàng tháng trước khi đủ tuổi hưởng trợ cấp hưu trí xã hội; hưởng bảo hiểm xã hội một lần.
Về các giải pháp gián tiếp như: Sửa đổi điều kiện hưởng chế độ hưu trí theo hướng giảm dần số năm đóng bảo hiểm xã hội tối thiểu để được hưởng chế độ hưu trí từ 20 năm xuống xuống 15 năm, hướng tới còn 10 năm với mức hưởng được tính toán phù hợp. Xây dựng hệ thống bảo hiểm xã hội đa tầng cùng với quy định liên kết giữa tầng trợ cấp hưu trí xã hội với tầng bảo hiểm xã hội cơ bản.
Các giải pháp khác cũng được tính đến là hỗ trợ phát triển doanh nghiệp, phát triển thị trường lao động nhằm duy trì việc làm cho người lao động; tăng cường sự liên kết, hỗ trợ giữa các chính sách bảo hiểm xã hội…