Đảng và Nhà nước đã đặt mục tiêu tăng trưởng 8% trở lên vào năm 2025 và mức tăng trưởng “hai con số” trong giai đoạn 2026 - 2030, hướng tới nhóm nước thu nhập trung bình cao vào năm 2030 và nhóm nước thu nhập cao vào năm 2045. Việc theo đuổi mục tiêu tăng trưởng kinh tế hai con số không chỉ là khát vọng chiến lược, mà còn là thước đo phản ánh tầm nhìn, quyết tâm và năng lực điều hành kinh tế vĩ mô của đất nước.
Việt Nam đang đứng trước yêu cầu cấp thiết phải nâng cao năng lực cạnh tranh, tái cơ cấu nền kinh tế và tận dụng tối đa các cơ hội từ hội nhập kinh tế quốc tế để đạt được các mục tiêu phát triển bền vững. Tuy nhiên, con đường hiện thực hóa mục tiêu tăng trưởng hai con số đặt ra nhiều thách thức về thể chế, nguồn lực, chất lượng tăng trưởng, năng suất lao động, khoa học, công nghệ và năng lực nội tại của doanh nghiệp.
Không những thế, bối cảnh toàn cầu đang có nhiều biến động với các yếu tố như căng thẳng địa chính trị, chính sách các nước lớn thay đổi, vấn đề chuyển đổi số, chuyển dịch chuỗi cung ứng và yêu cầu phát triển xanh - bền vững… đòi hỏi Việt Nam phải có các chiến lược phát triển linh hoạt, hiệu quả và đột phá.
Mặc dù Việt Nam đã nỗ lực chuyển đổi sang mô hình tăng trưởng dựa trên khoa học, công nghệ và đổi mới sáng tạo, nhưng do chất lượng nguồn nhân lực thấp, nguồn lực đầu tư hạn chế,… nên việc bứt phá trong lĩnh vực này còn gặp nhiều khó khăn.
Do đó, các chuyên gia cho rằng nếu không có những đột phá chính sách, tăng trưởng kinh tế của Việt Nam có thể sẽ tiếp tục phụ thuộc chủ yếu vào xuất khẩu và đầu tư nước ngoài, tốc độ tăng trưởng chỉ ở mức vừa phải và khó có sự đột phá để thoát khỏi bẫy thu nhập trung bình. Đổi mới mô hình tăng trưởng để tăng cường nội lực và giảm thiểu các rủi ro từ bên ngoài là điều cấp thiết trong bối cảnh hiện nay.
NĂM HẠN CHẾ VỀ CHẤT LƯỢNG TĂNG TRƯỞNG
TS. Đặng Đức Anh, Phó Viện trưởng, Viện Nghiên cứu chính sách và Chiến lược, chỉ ra năm hạn chế về chất lượng tăng trưởng và đóng góp vào tăng trưởng kinh tế.
Một là, tốc độ tăng năng suất lao động không ổn định và có xu hướng tăng trưởng chậm lại.
Hai là, đóng góp của năng suất nhân tố tổng hợp (TFP - là chỉ tiêu phản ánh kết quả sản xuất mang lại do nâng cao hiệu quả sử dụng vốn và lao động nhờ vào tác động của nhân tố đổi mới công nghệ, hợp lý hóa sản xuất, cải tiến quản lý, nâng cao trình độ lao động) vào tăng trưởng kinh tế còn thấp, đặc biệt tại các địa phương có tiềm năng phát triển lớn.
Theo APO, chỉ số TFP của Việt Năm tăng 1,17 lần sau 50 năm; thấp hơn Malaysia (1,69), Singapore (1,63), nhưng cao hơn Thái Lan (1,04), Indonesia (1,05) trong ASEAN-4. Cũng trong giai đoạn này, chỉ số TFP của Trung Quốc tăng 2,52 lần, Nhật Bản tăng 1,4 lần, Hàn Quốc tăng 2,09 lần và Hoa Kỳ tăng 1,4 lần. Đầu tư vào công nghệ và đổi mới sáng tạo còn hạn chế do đó năng lực khoa học, công nghệ còn thấp, không tạo ra đột phá về năng suất.
Các thành phố lớn như Hà Nội, TP.HCM là nơi hội tụ đủ điều kiện để nâng cao chất lượng tăng trưởng so với các địa phương khác, nhưng kết quả nâng cao chất lượng rất hạn chế. Tốc độ tăng năng suất lao động của các địa phương này thấp hơn nhiều so với mục tiêu đặt ra. Công nghiệp chế biến, chế tạo được coi là động lực tăng trưởng nhưng năng suất lao động không cải thiện nhiều, không ổn định, có xu hướng giảm trong các năm gần đây.

Ba là, hiệu quả sử dụng vốn đầu tư còn thấp, hạn chế mức độ cải thiện chất lượng tăng trưởng. Hệ số ICOR của Việt Nam mặc dù có cải thiện nhưng vẫn ở mức khá cao so với nhiều quốc gia trong khu vực và trên thế giới. So sánh với các quốc gia trong giai đoạn chuyển tiếp trước khi đạt mức thu nhập cao và một số quốc gia đang trong giai đoạn cần đầu tư hạ tầng phát triển như Trung Quốc, Hàn Quốc, Thái Lan, Malaysia, hệ số ICOR của Việt Nam ở mức cao hơn. So sánh trong cùng giai đoạn, hệ số ICOR của Việt Nam cũng cao hơn nhiều nước trong ASEAN.
Mặt khác, mặc dù Việt Nam hội nhập sâu rộng vào nền kinh tế thế giới, thu hút lượng vốn đầu tư trực tiếp nước ngoài (FDI) lớn và là nền kinh tế có độ mở lớn trên thế giới, nhưng vai trò của FDI trong nâng cao năng suất, cải thiện chất lượng tăng trưởng còn hạn chế. Tác động của thương mại quốc tế trong việc nâng cao năng lực khoa học, công nghệ, đổi mới sáng tạo của các doanh nghiệp trong nước chưa nhiều.
Bốn là, chất lượng lao động Việt Nam chậm được cải thiện, thiếu nhân lực chất lượng cao. Tỷ lệ nhân lực qua đào tạo có bằng cấp chứng chỉ tăng nhưng so với tổng số nhân lực đang làm việc trong nền kinh tế còn rất thấp. Thiếu lao động lành nghề, có trình độ chuyên môn kỹ thuật và nền kinh tế hiện đang đối mặt với những thách thức về thiếu hụt lao động có trình độ cao, có kỹ năng chuyên nghiệp đáp ứng nhu cầu trong bối cảnh chuyển đổi số. Việc các tập đoàn, công ty lớn có xu hướng thành lập các trường đại học, trường cao đẳng nghề riêng cũng cho thấy sự bất cập trong chất lượng đào tạo nghề của các trường đại học, trường cao đẳng, trung học chuyên nghiệp hiện nay.
Năm là, mức độ ứng dụng khoa học, công nghệ, đổi mới sáng tạo, chuyển đổi số, năng lực công nghệ của doanh nghiệp Việt Nam còn rất hạn chế. Thúc đẩy tăng trưởng theo hướng dựa nhiều hơn vào khoa học, công nghệ, đổi mới sáng tạo, tận dụng thành tựu của Cách mạng công nghiệp lần thứ tư còn chậm, kết quả đạt được còn khiêm tốn.
Công nghiệp chế biến chế tạo vẫn sử dụng công nghệ thấp hoặc chủ yếu mới tham gia ở các khâu gia công, lắp ráp, tạo ra giá trị gia tăng thấp. Năng lực về chuyển đổi số của khu vực doanh nghiệp còn hạn chế, chưa theo kịp xu thế. Mức độ sẵn sàng cho chuyển đổi số và ứng dụng công nghệ điển hình của Cách mạng công nghiệp lần thứ tư còn thấp.
NÂNG CAO CHẤT LƯỢNG TĂNG TRƯỞNG LÀ CON ĐƯỜNG DUY NHẤT VƯỢT BẪY THU NHẬP TRUNG BÌNH
Phân tích những yếu tố tác động tới nâng cao chất lượng tăng trưởng kinh tế đến năm 2030, chuyên gia cho rằng ngoài các bất ổn địa chính trị và cạnh tranh giữa các cường quốc, một động lực quan trọng thúc đẩy nâng cao chất lượng tăng trưởng là cuộc cách mạng công nghệ số.
Không những thế, thách thức về phát triển bền vững cũng buộc Việt Nam phải nâng cao chất lượng tăng trưởng. Đặc biệt, yếu tố thể chế đóng vai trò then chốt trong nâng cao chất lượng tăng trưởng của Việt Nam.
Theo chuyên gia, mặc dù chất lượng tăng trưởng kinh tế của Việt Nam đã có nhiều chuyển biến tích cực trong hơn một thập kỷ qua, thể hiện qua việc cải thiện năng suất lao động, hiệu quả sử dụng vốn và đóng góp ngày càng rõ nét của năng suất các nhân tố tổng hợp vào tăng trưởng. Tuy nhiên, những kết quả đạt được vẫn chưa đáp ứng kỳ vọng khi tốc độ tăng năng suất lao động có dấu hiệu chững lại, mức độ ứng dụng khoa học, công nghệ và đổi mới sáng tạo còn hạn chế và hiệu quả sử dụng vốn đầu tư vẫn ở mức thấp so với khu vực.
Trong bối cảnh nhiều thách thức từ bất ổn toàn cầu, sự phát triển nhanh chóng của khoa học, công nghệ, biến đổi khí hậu và sự thu hẹp của lợi thế dân số vàng, Việt Nam cần chuyển đổi mô hình tăng trưởng mạnh mẽ hơn theo chiều sâu, dựa trên nền tảng khoa học, công nghệ, đổi mới sáng tạo và phát triển nhân lực chất lượng cao.
Việc hoàn thiện thể chế, thúc đẩy chuyển dịch cơ cấu kinh tế và cải thiện môi trường đầu tư kinh doanh, đầu tư cho R&D, nâng cao năng lực khoa học, công nghệ, đổi mới sáng tạo sẽ là những yếu tố then chốt, quyết định khả năng duy trì tăng trưởng nhanh và bền vững của nền kinh tế.
Nâng cao chất lượng tăng trưởng không chỉ là yêu cầu tất yếu, mà còn là con đường duy nhất để Việt Nam vượt qua bẫy thu nhập trung bình và hướng tới mục tiêu phát triển nhanh và bền vững trong những thập niên tới.
GIẢI PHÁP TĂNG TRƯỞNG KINH TẾ CAO VÀ BỀN VỮNG
Theo TS. Đặng Đức Anh, để đạt tốc độ tăng trưởng bình quân hai con số (từ mức 10%/năm trở lên) trong giai đoạn 2026 - 2030, tốc độ tăng năng suất lao động bình quân cần đạt khoảng 8,1 - 8,6%/năm. Với đóng góp của TFP bình quân 55%/năm vào tăng trưởng, vốn đầu tư toàn xã hội phải tăng trung bình khoảng 8,6 - 9,3%/năm. Tỷ trọng vốn/GDP tương ứng khoảng 36,4 - 40,8%.
Thừa nhận những thách thức từ cả môi trường bên ngoài và bên trong là vô cùng lớn, do đó, các chuyên gia cho rằng Việt Nam cần có những chính sách kinh tế vĩ mô phù hợp, phát huy được nội lực và giảm thiểu được những rủi ro của bất ổn kinh tế vĩ mô và căng thẳng địa chính trị trên thế giới.
Để đạt mục tiêu tăng trưởng kinh tế cao và bền vững đến năm 2045, quan điểm nhất quán là cần ổn định kinh tế vĩ mô; có kịch bản tăng trưởng phù hợp, đảm bảo sự linh hoạt và kiểm soát rủi ro, có cơ chế giám sát, trọng tâm trọng điểm; tăng năng suất lao động; đánh giá tác động mục tiêu về môi trường, xã hội với tăng trưởng; tìm động lực tăng trưởng từ tổng cung và tổng cầu...

Để tăng trưởng kinh tế cao và bền vững, trong một tọa đàm tổ chức đầu tháng 6 về chủ đề tăng trưởng kinh tế, PGS.TS. Phạm Thế Anh, Đại học Kinh tế Quốc dân, nêu đề xuất rằng cần xây dựng kế hoạch dài hạn cụ thể, tạo chính sách hỗ trợ (thuế, tín dụng và môi trường kinh doanh) cho các ngành mũi nhọn, có lợi thế cạnh tranh; đồng thời, đẩy mạnh đào tạo nhân lực chất lượng cao và đầu tư cho R&D.
Mặt khác, cần chọn lọc đầu tư vào các dự án cơ sở hạ tầng có sức lan tỏa cao, tránh dàn trải, không tập trung vào các mục tiêu trọng điểm. Đối với việc huy động nguồn lực thực hiện các dự án đầu tư công lớn, phải chuyển dịch cơ cấu chi và tìm các nguồn thu bền vững.
Đối với tăng năng suất– được xem như là động lực tăng trưởng quan trọng nhất, giải pháp thực hiện sẽ là chuyển dịch cơ cấu, tăng cường hiệu quả, tăng trưởng theo chiều rộng, đổi mới sáng tạo.
Còn theo Viện Nghiên cứu Chính sách và Chiến lược, việc thực hiện các nghị quyết về “bộ tứ chiến lược” (Nghị quyết 57, Nghị quyết 59, Nghị quyết 66 và Nghị quyết 68), cùng với công cuộc cải cách bộ máy, sắp xếp lại các tỉnh, chính quyền Trung ương, địa phương theo hướng tinh gọn, hiệu năng, hiệu lực, hiệu quả, tạo điều kiện thuận lợi để thực hiện các giải pháp nâng cao chất lượng tăng trưởng, tạo đột phá về tăng năng suất.
Nêu quan điểm về vấn đề này, ông Nguyễn Cảnh Cường, nguyên Tham tán thương mại tại Pháp và Anh, Tham tán công sứ tại Bỉ - EU, Giảng viên, Chuyên gia Trường Đại học Kinh tế - Đại học quốc gia Hà Nội, nhấn mạnh: “Để thực hiện mục tiêu phát triển nhanh và bền vững, điều cốt yếu là phải xác định và triển khai đồng bộ các nhân tố then chốt một cách thực chất và hiệu quả”.
Theo chuyên gia, một trong những trụ cột quan trọng là phát triển công nghiệp công nghệ cao và đổi mới sáng tạo. Quá trình chuyển đổi từ mô hình công nghiệp dựa vào lao động giá rẻ sang nền công nghiệp dựa trên tri thức và công nghệ sạch cần được thúc đẩy mạnh mẽ. Những lĩnh vực mũi nhọn như chip bán dẫn, robot, xe điện, vật liệu mới và công nghệ số cần được ưu tiên với chiến lược đầu tư rõ ràng vào R&D; đồng thời, tăng cường kết nối giữa doanh nghiệp, viện nghiên cứu và trường đại học.
Cùng với đó, phát triển công nghiệp xanh và kinh tế tuần hoàn nhằm hiện thực hóa cam kết đạt phát thải ròng bằng 0 vào năm 2050. Điều này đòi hỏi sự phát triển đồng bộ của năng lượng tái tạo, giao thông điện hóa, tiêu dùng bền vững và hạ tầng hỗ trợ mô hình kinh tế tuần hoàn.
Huy động nguồn lực tài chính trong xã hội và thúc đẩy tài chính xanh là một trong những đòn bẩy quan trọng để bảo đảm tính bền vững trong phát triển. Phát triển thị trường vốn, mở rộng hợp tác công – tư (PPP), tăng cường ứng dụng tiêu chí ESG (môi trường, xã hội và quản trị) trong thẩm định tín dụng và phân bổ đầu tư công là những giải pháp cần thiết.
Chuyên gia cũng lưu ý vấn đề chuyển đổi số toàn diện đóng vai trò then chốt trong nâng cao năng suất và hiệu quả toàn nền kinh tế. Mục tiêu đặt ra là đến năm 2030, kinh tế số đóng góp khoảng 30% GDP. Để đạt được điều này, cần tích hợp sâu các công nghệ như AI, Big Data, và IoT vào sản xuất, kinh doanh và dịch vụ công, đồng thời phát triển hạ tầng số quốc gia, nâng cao kỹ năng số của lực lượng lao động.
Bên cạnh nguồn nhân lực chất lượng cao, chuyên gia cũng nhấn mạnh việc hoàn thiện thể chế và nâng cao hiệu quả quản trị là điều kiện nền tảng bảo đảm cho mọi nỗ lực phát triển.
Để đạt được mục tiêu phát triển nhanh và bền vững, cần một chiến lược tổng thể, tích hợp nhiều trụ cột: công nghiệp đổi mới sáng tạo, nông nghiệp hiện đại, dịch vụ văn hóa và du lịch, thị trường nội địa vững mạnh và thể chế hiệu quả. Theo chuyên gia, thành công của chiến lược này không chỉ phụ thuộc vào chính sách mà còn khả năng tổ chức thực hiện, sự phối hợp chặt chẽ giữa Nhà nước, doanh nghiệp và toàn xã hội.
Thảo luận vấn đề tăng trưởng nhanh và bền vững tại Kỳ họp thứ 9, Quốc hội Khóa XV vừa qua, đại biểu Trần Hoàng Ngân, Đoàn đại biểu Quốc hội TP.Hồ Chí Minh, phân tích: trong gần 40 năm đổi mới, kinh tế đất nước tăng trưởng liên tục và năm tăng trưởng cao nhất là năm 1995 (trên 9,5%). Tuy nhiên trong thời gian đó, Việt Nam có vài lần bị tác động bởi những cú sốc từ bên ngoài như khủng hoảng tài chính tiền tệ Đông Nam Á (năm 1997); khủng hoảng tài chính, suy thoái kinh tế thế giới (năm 2008)…
KIÊN TRÌ BA ĐỘT PHÁ CHIẾN LƯỢC, THÚC ĐẨY ĐỘNG LỰC TĂNG TRƯỞNG MỚI
Để đất nước có thể tăng trưởng nhanh và bền vững trong giai đoạn mới, chuyên gia kinh tế Trần Hoàng Ngân cho rằng phải có những giải pháp căn cơ mang tầm chiến lược dài hạn để giảm thiểu những cú sốc từ bên ngoài.
Thứ nhất, Việt Nam phải kiên trì ba đột phá chiến lược về thể chế, hạ tầng và nhân lực. Về thể chế, Tổng Bí thư xác định thể chế là điểm nghẽn của các điểm nghẽn. Chính phủ, Quốc hội đã nỗ lực hoàn thiện thể chế và đặc biệt là thể chế kinh tế thị trường định hướng xã hội chủ nghĩa.
Trong kỳ họp thứ 9 Quốc hội Khóa XV đã thông qua hàng chục luật và nghị quyết có ý nghĩa rất lớn; đồng thời, thể chế đường lối, chủ trương của Đảng thông qua “bộ tứ trụ cột” và Nghị quyết số 60-NQ/TW của Ban Chấp hành Trung ương Đảng Khóa XIII.

Thứ hai, cơ cấu lại ba động lực truyền thống: xuất khẩu, đầu tư và tiêu dùng. Về tiêu dùng, cần quan tâm hơn nữa về tiêu dùng nội địa, đặc biệt là thị trường 100 triệu dân trong nước.
Thứ ba, khơi thông ba động lực mới là khoa học, công nghệ, đổi mới sáng tạo, chuyển đổi số và phát huy động lực không gian phát triển mới từ Nghị quyết của Quốc hội về việc sắp xếp có 34 đơn vị hành chính cấp tỉnh mới. Khi có thể chế tương thích và đầu tư hạ tầng đồng bộ, ba động lực mới này sẽ giúp tăng tốc trong thời gian tới.
Để giảm cú sốc bên ngoài, cần quan tâm hơn phát huy tối đa tiềm năng và lợi thế của đất nước. Đó là những lợi thế trong nông nghiệp, kinh tế biển, du lịch và lĩnh vực dịch vụ (như tài chính, ngân hàng…).
Cùng quan điểm, đại biểu Lê Hữu Trí, Đoàn đại biểu Quốc hội tỉnh Khánh Hòa, cho rằng để đạt mục tiêu tăng trưởng, việc ưu tiên thúc đẩy tăng trưởng kinh tế, giữ vững ổn định kinh tế vĩ mô và kiểm soát lạm phát là hết sức cần thiết. Trong đó cần tập trung và kiên trì đẩy mạnh thực hiện ba đột phá chiến lược, đặc biệt là tiếp tục xây dựng và hoàn thiện thể chế hướng đến một chính sách thông thoáng, hạ tầng thông suốt, quản trị thông minh nhằm giảm chi phí tuân thủ, chi phí logistics, nâng cao năng suất lao động và sức cạnh tranh.
Bên cạnh đó, đẩy mạnh phát triển kết cấu hạ tầng chiến lược, tập trung nguồn lực cho các dự án trọng điểm, tạo động lực phát triển kinh tế vùng, liên vùng. Tập trung đào tạo và phát triển nguồn nhân lực chất lượng cao đáp ứng yêu cầu của nền kinh tế số và hội nhập quốc tế; nâng cao hiệu quả, hiệu lực thực thi pháp luật và quản lý xã hội.
Các ý kiến thảo luận cũng nhấn mạnh việc khai thác hiệu quả các động lực tăng trưởng mới như chuyển đổi xanh, kinh tế tuần hoàn và đổi mới sáng tạo trong bối cảnh Việt Nam cam kết mục tiêu Net Zero vào năm 2050. Đây không chỉ là nghĩa vụ mà còn là cơ hội lớn để Việt Nam chuyển đổi mô hình tăng trưởng; đồng thời phát triển kinh tế số, hạ tầng số và dữ liệu mở như nền tảng phát triển mới để đạt được tăng trưởng kinh tế bền vững trong kỷ nguyên số...
Nội dung bài viết được đăng tải trên ẩn phẩm đặc biệt Kinh tế 2024-2025: Việt Nam & Thế giới phát hành vào tháng 02/2025. Kính mời Quý độc giả tìm đọc tại đây:
https://postenp.phaha.vn/tap-chi-kinh-te-viet-nam/detail/1493
